Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình do Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 01/NQ-HĐTP
Ngày ban hành 20/01/1988
Ngày có hiệu lực 04/02/1988
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Người ký Phạm Hưng
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng,Quyền dân sự

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 01/NQ-HĐTP

Hà Nội, ngày 20 tháng 1 năm 1988

 

NGHỊ QUYẾT

CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 01/NQ-HĐTP NGÀY 20 THÁNG 01 NĂM 1988 HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Căn cứ vào các Điều 23 và 24 Luật Tổ chức Toà án nhân dân ngày 3-7-1981 về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao họp ngày 20-1-1988 có sự tham gia của đồng chí đại diện Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và đồng chí đại diện Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:

1. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật (Điều 9).

Theo điều 9, Toà án nhân dân có quyền huỷ những việc kết hôn vi phạm các điều 5, 6, 7 Luật Hôn nhân và gia đình khi có yêu cầu của "một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam".

Huỷ việc kết hôn trái pháp luật nhằm bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng có hậu quả rất lớn đối với cuộc sống của hai người và con cái của họ. Do đó, Toà án phải điều tra về nguyên nhân, hoàn cảnh việc kết hôn trái pháp luật, cuộc sống chung từ khi xin kết hôn đến khi xin huỷ việc kết hôn v.v... và phải cân nhắc rất thận trọng. Phương hưởng xử lý như sau:

a. Đối với những trường hợp chưa đủ tuổi kết hôn vi phạm Điều 5.

Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.

Nếu kết hôn chưa đủ tuổi như quy định của Điều 5 mà có yêu cầu của những người quy định trong Điều 9 thì Toà án xử huỷ việc kết hôn.

Nếu do kết hôn chưa đủ tuổi mà cuộc sống của hai bên không có hạnh phúc, đến khi họ đã đủ tuổi kết hôn mới có yêu cầu chấm dứt hôn nhân thì Toà án cũng huỷ việc kết hôn. Trái lại, nếu hai bên đã chung sống bình thường, đã có con và tài sản chung, sau đó mới phát sinh mâu thuẫn thì không máy móc xử huỷ việc kết hôn mà áp dụng Điều 40 (ly hôn) để xét xử.

b. Đối với những trường hợp bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết hôn vi phạm Điều 6.

Bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết hôn đều là trái với nguyên tắc tự nguyện kết hôn. Vì vậy, Toà án xử huỷ việc kết hôn. Tuy nhiên, nếu khi kết hôn có bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối, nhưng sau đó vợ chồng đã thông cảm với nhau, chung sống hoà thuận thì một bên hoặc hai bên có nhu cầu chấm dứt hôn nhân, Toà án áp dụng Điều 40 (ly hôn) để xét xử chứ không huỷ việc kết hôn, trừ trường hợp người đang có vợ hoặc có chồng nhưng đã nói dối là chưa có để kết hôn với người khác thì phải huỷ việc kết hôn đó.

c. Đối với những trường hợp vi phạm Điều 7

Điều 7 cấm kết hôn trong những trường hợp sau đây:

- Đang có vợ hoặc có chồng;

- Đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình, đang mắc bệnh da diễu;

- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng mẹ khác cha, hoặc cùng cha khác mẹ; giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời;

- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.

(Cùng dòng máu về trực hệ là cha mẹ với con cái; ông bà với cháu nội, cháu ngoại; có họ trong phạm vi ba đời tính như sau: đối với người cùng một gốc sinh ra thì cha mẹ là đời thứ nhất; anh em là đời thứ hai; con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì, con già đời thứ ba).

Đối với hôn nhân vi phạm một trong các trường hợp của Điều 7 mà có người yêu cầu huỷ việc kết hôn thì nói chung Toà án phải xử huỷ việc kết hôn. Riêng đối với trường hợp đang có vợ, có chồng mà lấy người khác thì cần chú ý:

- Đối với những cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lý theo Thông tư của Toà án nhân dân tối cao số 60/TATC ngày 22-2-1978 hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác.

- Cá biệt nếu có trường hợp vợ chồng chưa ly hôn xong nhưng một bên đã đi lấy người khác. Nếu xét thấy hôn nhân trước trong thực tế đã không còn tồn tại, hai bên không thể đoàn tụ được nữa mà một bên hoặc hai bên đã xin ly hôn thì mặc dầu hôn nhân sau là không hợp pháp, nhưng không máy móc huỷ việc kết hôn sau mà có thể chỉ xử ly hôn đối với hôn nhân trước.

Hậu quả của việc huỷ kết hôn trái pháp luật là hai bên không được duy trì quan hệ vợ chồng nữa, tài sản riêng của ai thì người đó lấy về và tài sản chung được chia theo sự đóng góp của mỗi bên. Trong trường hợp kết hôn trái pháp luật là do một bên bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối thì người bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối có thể yêu cầu Toà án giải quyết quyền lợi của họ (chia tài sản chung, cấp dưỡng...) như khi ly hôn.

d. Xử lý về hình sự những trường hợp kết hôn trái pháp luật.

Bộ luật hình sự đã quy định tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ (Điều 143), tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 141) và tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 145). Vì vậy, trong những trường hợp đã cấu thành những tội này, Viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố hoặc Toà án nhân dân có thể chuyển hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố. Khi Toà án xét xử về hình sự thì ngoài việc quyết định hình phạt đối với bị cáo, cần phải tuyên rõ trong bản án là huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu sau đó hai bên còn tranh chấp về con cái hoặc tài sản thì Toà án sẽ giải quyết những vấn đề này theo thủ tục về dân sự.

2. Trường hợp kết hôn vi phạm Điều 8

[...]