NGHỊ QUYẾT
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIẢI
QUYẾT VỤ VIỆC VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11
năm 2014;
Căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình ngày 19 tháng 6 năm 2014;
Căn cứ Bộ luật Dân sự ngày 24 tháng 11 năm 2015;
Căn cứ Bộ luật Tố tụng dân sự ngày 25 tháng 11 năm
2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Để áp dụng đúng và thống
nhất một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia
đình;
Sau khi có ý kiến của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1.
Phạm vi điều chỉnh
Nghị quyết này hướng dẫn
áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và
gia đình.
Điều
2. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia
đình
1. “Đang có thai”
quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình
là khoảng thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền
xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.
2. “Sinh con” quy
định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Vợ đã sinh con nhưng
không nuôi con trong khoảng thời gian từ khi sinh con đến khi con dưới 12 tháng
tuổi;
b) Vợ đã sinh con nhưng
con chết trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh con;
c) Vợ có thai từ 22 tuần
tuổi trở lên mà phải đình chỉ thai nghén.
3. Chồng không có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ
ngày vợ sinh con hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này hoặc ngày đình
chỉ thai nghén hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này.
4. Trường hợp vợ đang có
thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có
thai, sinh con với ai.
5. Trường hợp vợ đang
nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không
phân biệt con đẻ, con nuôi.
6. Trường hợp mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo thì việc xác định quyền yêu cầu giải quyết ly hôn của chồng
như sau:
a) Chồng của người mang
thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang có thai,
sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
b) Chồng của người nhờ
mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang nuôi
con dưới 12 tháng tuổi hoặc khi người mang thai hộ đang có thai, sinh con hoặc
đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Điều
3. Thuận tình ly hôn quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình
1. “Vợ chồng cùng yêu
cầu ly hôn” quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia
đình là trường hợp vợ chồng cùng ký vào đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoặc một bên có đơn khởi kiện
ly hôn, còn bên kia đồng ý ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn.
2. Thỏa thuận của vợ chồng
về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con phải
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
3. Thỏa thuận của vợ chồng
về việc chia tài sản bao gồm cả trường hợp vợ chồng không yêu cầu Tòa án giải
quyết việc chia tài sản.
4. “Việc trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con” quy định tại Điều 55 của
Luật Hôn nhân và gia đình là việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Điều 4.
Ly hôn theo yêu cầu của một bên quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia
đình
1. “Vợ, chồng có hành
vi bạo lực gia đình” là vợ, chồng có hành vi quy định tại khoản
1 Điều 3 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
2. “Vi phạm nghiêm trọng
quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” là vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của
vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
kia.
Ví dụ: Vợ, chồng phá tán
tài sản gia đình.
3. “Hôn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt được” là thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không có tình nghĩa vợ
chồng, ví dụ: vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vợ,
chồng sống ly thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng;
b) Vợ, chồng có quan hệ
ngoại tình;
c) Vợ, chồng xúc phạm
nhau, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc
gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau;
d) Không bình đẳng về quyền,
nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ,
chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển.
Điều
5. Hạn chế phân chia di sản của vợ, chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị
Tòa án tuyên bố là đã chết quy định tại khoản 3 Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia
đình
Việc chia di sản ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định
tại khoản 3 Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 661 của Bộ luật Dân sự là trường hợp người chết có để lại
di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống
và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn
tư liệu sản xuất duy nhất...
Ví dụ 1: Trước khi kết
hôn, anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 35 m2. Sau đó
anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ
chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A chết và không để lại di chúc.
Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con
không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi
nhà này lại không thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia
di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và
con.
Ví dụ 2: Anh C và chị D kết
hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 35 m2. Sau khi sinh
được một người con thì anh C chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu
cầu chia di sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D
và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật
thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D
phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng
không có khả năng. Trong trường hợp này, việc chia di sản thừa kế phần nhà của
anh C trong ngôi nhà có diện tích 35 m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống của chị D và con.
Điều
6. Giải quyết việc nuôi con khi ly hôn quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình
1. Khi xem xét “quyền
lợi về mọi mặt của con” quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật
Hôn nhân và gia đình phải đánh giá khách quan, toàn diện các tiêu chí sau
đây:
a) Điều kiện, khả năng của
cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả
năng bảo vệ con khỏi bị xâm hại, bóc lột;
b) Quyền của con được sống
chung với người trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ
không trực tiếp nuôi;
c) Sự gắn bó, thân thiết
của con với cha, mẹ;
d) Sự quan tâm của cha, mẹ
đối với con;
đ) Bảo đảm sự ổn định, hạn
chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của con;
e) Nguyện vọng của con được
ở cùng với anh, chị, em (nếu có) để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của con;
g) Nguyện vọng của con được
sống chung với cha hoặc mẹ.
2. Việc lấy ý kiến của
con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên quy định tại khoản 2
Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình và khoản 3 Điều 208 của
Bộ luật Tố tụng dân sự phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
a) Bảo đảm thân thiện,
phù hợp với tâm lý, độ tuổi, mức độ trưởng thành để con có thể bày tỏ đúng và đầy
đủ ý kiến của mình;
b) Không lấy ý kiến trước
mặt cha, mẹ để tránh gây áp lực tâm lý cho con;
c) Không ép buộc, không
gây áp lực, căng thẳng cho con.
3. “Người mẹ không đủ
điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” quy định
tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình là trường
hợp người mẹ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Mắc bệnh hiểm nghèo hoặc
bị bệnh nặng khác mà không thể tự chăm sóc bản thân hoặc không thể trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
Ví dụ: Trường hợp người mẹ
bị đột quỵ và liệt nửa người, không còn khả năng đi lại thì Tòa án không giao
con dưới 36 tháng tuổi cho người mẹ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con.
b) Có thu nhập mỗi tháng
thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người mẹ đang cư trú và
không có tài sản nào khác để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
c) Người mẹ không có điều
kiện về thời gian tối thiểu để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con.
4. Trường hợp điều kiện
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người cha không tốt hơn điều
kiện của người mẹ hướng dẫn tại khoản 3 Điều này thì Tòa án quyết định giao con
cho mẹ trực tiếp nuôi.
Điều
7. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia
đình
1. Trường hợp người trực
tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng thì Tòa án
giải thích cho họ việc yêu cầu cấp dưỡng cho con là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của con. Nếu xét thấy người trực tiếp nuôi con có khả năng, điều kiện
nuôi dưỡng và việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện thì Tòa án không buộc
bên kia phải cấp dưỡng cho con.
2. Tiền cấp dưỡng cho con
là toàn bộ chi phí cho việc nuôi dưỡng, học tập của con và do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng
căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng do Tòa án quyết định nhưng
không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang
cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con.
3. Trường hợp các bên
không thỏa thuận được phương thức cấp dưỡng thì Tòa án quyết định phương thức cấp
dưỡng hàng tháng hoặc phương thức khác phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con và
điều kiện kinh tế của người cấp dưỡng.
4. Nghĩa vụ cấp dưỡng của
cha, mẹ đối với con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình phát sinh kể từ thời điểm cha, mẹ không sống
chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Điều
8. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên quy định tại Điều 85 của Luật Hôn nhân và gia đình
1. “Bị kết án về một
trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi
cố ý” là bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về một trong
các tội quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự đối với con
chưa thành niên với lỗi cố ý.
Ví dụ: Cha, mẹ bị kết án
bằng bản án có hiệu lực pháp luật về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 của Bộ luật Hình sự đối với con chưa thành niên.
2. “Hành vi vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” là
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của con hoặc làm tổn hại đến sư phát triển toàn diện của con.
Ví dụ: Cha, mẹ bỏ mặc con
chưa thành niên tự sinh sống, không có điều kiện để tự nuôi mình dẫn đến con có
hành vi trộm cắp tài sản.
3. “Phá tán tài sản của
con” là mua, bán, tặng cho, hủy hoại hoặc hành vi khác làm thiệt hại đến
tài sản của con mà không vì lợi ích của con.
4. “Có lối sống đồi trụy”
là lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng, trái với thuần
phong, mỹ tục của dân tộc.
Ví dụ: Cha, mẹ thực hiện
hoạt động mại dâm.
5. “Xúi giục, ép buộc
con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” là hành vi kích động,
dụ dỗ, thúc đẩy, ép buộc bằng lời nói, cử chỉ hoặc bằng bất cứ hình thức nào dẫn
đến con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Ví dụ: xúi giục, ép buộc
dẫn đến con bỏ học, trộm cắp, lừa đảo, vận chuyển trái phép chất ma túy.
6. Tòa án có thể tự mình
hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức ra quyết định về việc cha, mẹ bị
hạn chế quyền đối với con chưa thành niên, cụ thể như sau:
a) Không cho cha, mẹ
trông nom, chăm sóc, giáo dục con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản
1, 2, 4 và 5 Điều này;
b) Không cho cha, mẹ quản
lý tài sản của con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại khoản 3 Điều này;
c) Không cho cha, mẹ đại
diện theo pháp luật cho con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2,
3, 4 và 5 Điều này.
7. Tòa án quyết định rút
ngắn thời hạn hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong trường
hợp cha, mẹ đã thực hiện được một phần hai thời hạn theo quyết định của Tòa án
và trong thời hạn này, cha, mẹ không thực hiện một trong các hành vi quy định tại
các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.
Điều
9. Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án về hôn nhân và gia đình trong một số
trường hợp
1. Vụ án về hôn nhân và
gia đình có tranh chấp về bất động sản mà nơi cư trú, làm việc của bị đơn,
nguyên đơn quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ
luật Tố tụng dân sự và nơi có bất động sản đang tranh chấp khác nhau thì thẩm
quyền của Tòa án được xác định theo quy định tại điểm a, điểm b
khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Trường hợp cha và mẹ
là người Việt Nam định cư ở nước ngoài có đơn khởi kiện về việc thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, con chung đang sinh sống tại Việt Nam thì
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Việt Nam theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Điều
10. Giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng
không rõ địa chỉ
Trong vụ án ly hôn, người
Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người Việt Nam ở nước ngoài và nguyên đơn
chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không
cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài thì Tòa án giải quyết như sau:
1. Trường hợp qua người
thân thích của bị đơn có căn cứ xác định họ có liên hệ với người thân thích ở
trong nước nhưng người thân thích của họ không cung cấp địa chỉ của bị đơn cho
Tòa án, không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết thì được
coi là cố tình giấu địa chỉ.
Trường hợp Tòa án đã yêu
cầu đến lần thứ hai mà người thân thích của họ không cung cấp địa chỉ của bị
đơn cho Tòa án, không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết
thì Tòa án tiếp tục giải quyết, xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.
2. Sau khi xét xử, Tòa án
gửi cho người thân thích của bị đơn bản sao bản án, quyết định để họ chuyển cho
bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại
trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cuối cùng của bị đơn và nơi người thân
thích của bị đơn cư trú để đương sự có thể thực hiện quyền kháng cáo theo quy định
của pháp luật tố tụng.
Điều
11. Án phí trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình
1. Đương sự phải chịu án
phí trong vụ án tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con theo quy định tại Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, trừ trường hợp tranh chấp về xác định
cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
2. Trong vụ án ly hôn mà
các bên đương sự thuận tình ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và
gia đình thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp các bên
đương sự thuận tình ly hôn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì các bên đương sự
phải chịu 50% mức án phí quy định (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí quy định);
b) Trường hợp các bên
đương sự thuận tình ly hôn tại phiên tòa sơ thẩm thì các bên đương sự phải chịu
100% mức án phí quy định (mỗi bên phải chịu 50% mức án phí quy định).
3. Trường hợp trước khi mở
phiên tòa, các bên đương sự tự nguyện ly hôn nhưng không thỏa thuận được về con
chung và tài sản chung mà Tòa án xét xử và ra bản án sơ thẩm thì các đương sự
phải chịu 50% mức án phí quy định đối với yêu cầu xin ly hôn (mỗi bên phải chịu
25% mức án phí quy định); về quan hệ tài sản thì mức án phí mỗi bên phải chịu
tương ứng với giá trị phần tài sản mà mỗi bên được chia theo quy định của pháp
luật về án phí.
Điều
12. Hiệu lực thi hành
1. Nghị quyết này đã được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 24 tháng 4 năm 2024
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2024.
2. Trong quá trình thực
hiện nếu có vướng mắc, đề nghị phản ánh cho Tòa án nhân dân tối cao để hướng dẫn
bổ sung kịp thời.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để giám
sát);
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (để giám sát);
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (để giám sát);
- Ban Dân nguyện thuộc UBTVQH;
- Ban Nội chính Trung ương (để báo cáo);
- Văn phòng Trung ương Đảng (để báo cáo);
- Văn phòng Chủ tịch nước (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ 02 bản (để đăng Công báo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp);
- Bộ Tư pháp (để phối hợp);
- Các TAND và TAQS các cấp (để thực hiện);
- Các Thẩm phán và các đơn vị thuộc TANDTC (để thực hiện);
- Cổng Thông tin điện tử TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT, Vụ PC&QLKH TANDTC.
|
TM. HỘI ĐỒNG THẨM
PHÁN
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
|