HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỔI CAO
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
|
SỐ:
01/2004/NQ-HĐTP
|
Hà
Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2004
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ
01/2004/NQ-HĐTP NGÀY 28 THÁNG 4 NĂM 2004 HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân;
Để áp dụng đúng và thống nhất quy định của Bộ Luật Dân sự trong việc giải quyết
các tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
I. VỀ NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG
1. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại Điều 609 Bộ Luật
Dân sự, về nguyên tắc chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:
1.1. Phải có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật
chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
a) Thiệt hại về vật chất bao gồm:
thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 612 Bộ Luật Dân sự; thiệt hại
do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 613 Bộ Luật Dân sự;
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 614 Bộ
Luật Dân sự; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 615 Bộ Luật Dân sự.
b) Thiệt hại do tổn thất về tinh
thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi
nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm
sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm... và cần phải được bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần
của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức)
được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi
sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
1.2. Phải có hành vi trái pháp
luật.
Hành vi trái pháp luật là những
xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động
trái với các quy định của pháp luật.
1.3. Phải có mối quan hệ nhân quả
giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt hại xảy ra phải là kết
quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là
nguyên nhân gây ra thiệt hại.
1.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi
vô ý của người gây thiệt hại.
a) Cố ý gây thiệt hại là trường
hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà
vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy
ra.
b) Vô ý gây thiệt hại là trường
hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc
dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc
có thể ngăn chặn được.
Cần chú ý là đối với trường hợp
pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách
nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện
theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
2. Nguyên tắc
bồi thường thiệt hại
2.1. Khi giải quyết tranh chấp về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường
thiệt hại quy định tại Điều 610 Bộ Luật Dân sự. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của
các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu
thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
2.2. Trong trường hợp các bên
không thỏa thuận được thì khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng cần chú ý:
a) Thiệt hại phải được bồi thường
toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản,
sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các
điều luật tương ứng của Bộ Luật Dân sự quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt
hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của
các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng
đó.
b) Để thiệt hại có thể được bồi
thường kịp thời, Tòa án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc
một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải
quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.
c) Người gây thiệt hại chỉ có thể
được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện sau đây:
- Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại;
- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với
khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt
hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của
họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần
lớn thiệt hại đó.
d) Mức bồi thường thiệt hại
không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh
tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không
còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật,
khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không
còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của
người gây thiệt hại...
3. Năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
3.1. Khi thực hiện quy định tại
Điều 611 Bộ Luật Dân sự về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần
phải chú ý xác định đúng tư cách đương sự trong từng trường hợp; cụ thể như
sau:
- Trong trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 611 Bộ Luật Dân sự thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự, trừ
khi họ mất năng lực hành vi dân sự;
- Trong trường hợp quy định tại
đoạn 1 khoản 2 Điều 611 Bộ Luật Dân sự thì cha, mẹ của người gây thiệt hại là bị
đơn dân sự;
- Trong trường hợp quy định tại
đoạn 2 khoản 2 Điều 611 Bộ Luật Dân sự thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự
và cha, mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Trong trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 611 Bộ Luật Dân sự thì cá nhân, tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự.
3.2. Việc quyết định về bồi thường
(lấy tài sản để bồi thường) phải cụ thể và theo đúng quy định tại Điều 611 Bộ
Luật Dân sự.
4. Chi phí hợp
lý
Các khoản chi phí hợp lý quy định
tại khoản 1 và khoản 3 Điều 613, khoản 2 và khoản 3 Điều 614 và khoản 1 Điều
615 Bộ Luật Dân sự là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ
của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi
phí.
5. Nghĩa vụ chứng minh của các
đương sự
a) Người bị thiệt hại yêu cầu bồi
thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu
bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí
hợp lý, về thu nhập của người bị thiệt hại.
b) Người gây thiệt hại yêu cầu
giảm mức bồi thường thiệt hại phải có tài liệu, chứng cứ về khả năng kinh tế trước
mắt và lâu dài của mình không đủ để bồi thường toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại
đã xảy ra.
c) Người bị thiệt hại hoặc người
gây thiệt hại yêu cầu thay đổi mức bồi thường thiệt hại phải có đơn xin thay đổi
mức bồi thường thiệt hại. Kèm theo đơn là các tài liệu, chứng cứ làm căn cứ cho
việc xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại.
d) Việc chứng minh không có lỗi
thuộc nghĩa vụ của người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
II. XÁC ĐỊNH
THIỆT HẠI
1. Thiệt hại
do sức khỏe bị xâm phạm
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
được bồi thường bao gồm:
1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị
thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại
cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X
quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu...
theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi
dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các
chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí
cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc
phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc
bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm người bị
thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khỏe bị xâm phạm họ phải đi điều trị
và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi
thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
a) Thu nhập thực tế của người bị
thiệt hại được xác định như sau:
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm
phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền
công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề
trước khi người đó bị xâm phạm sức khỏe nhân với thời gian điều trị để xác định
khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm
phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức
thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng
liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khỏe bị
xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người
bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm
phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể
xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân
với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm
phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được
bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều 613 Bộ Luật Dân sự.
b) Xác định thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau:
Bước một: Xác định thu nhập
thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì
tổng số thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy tổng số thu
nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với
thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2
này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời
gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn
thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút;
nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.
Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự
do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khỏe bị xâm phạm là ổn định, trung
bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức khỏe bị xâm phạm, A phải điều trị nên
không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.
Ví dụ 2: B làm công cho một công
ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khỏe bị xâm phạm
là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600 ngàn đồng. Do sức khỏe bị xâm phạm, B
phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là
300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm
sút 300 ngàn đồng.
Ví dụ 3: C là công chức có thu
nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức khỏe bị xâm phạm, C phải điều trị
và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong
trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.
1.3. Chi phí hợp lý và phần thu
nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều
trị.
a) Chi phí hợp lý cho người chăm
sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại,
tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí
(nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời
gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.
b) Thu nhập thực tế bị mất của
người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như
sau:
- Nếu người chăm sóc người bị
thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ
hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước
khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để
xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị
thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập
khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6
tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị
thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị
thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó
không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công
trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt
hại cư trú.
- Nếu trong thời gian chăm sóc
người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả
lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã
hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.
1.4. Trong trường hợp sau khi điều
trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm
sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai
mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên)
thì các khoản tiền phải bồi thường gồm có chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người
bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng.
a) Chi phí hợp lý cho việc chăm
sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng,
điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc
người bị thiệt hại.
Chi phí hợp lý cho người thường
xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả
cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.
Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị
thiệt hại do mất khả năng lao động.
b) Khoản tiền cấp dưỡng cho những
người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
b.1) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng
cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi sức
khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp
dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện
nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm sức khỏe mất
khả năng lao động, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp
lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu
thiết yếu của người được bồi thường.
b.2) Đối tượng được bồi thường
khoản tiền cấp dưỡng:
- Vợ hoặc chồng không có khả
năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người
bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con
đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi
mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Cha, mẹ là người không có khả
năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại
đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn
đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con
đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà
cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Em chưa thành niên không có
tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không
có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không
có khả năng lao động, không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã
thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng;
- Anh, chị không có khả năng lao
động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với
anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Cháu chưa thành niên hoặc cháu
đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và
không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với
cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Ông bà nội, ông bà ngoại không
có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp
dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là
người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất
về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm.
a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về
tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.
b) Không phải trong mọi trường hợp
sức khỏe bị xâm phạm thì người bị thiệt hại đương nhiên được bồi thường khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục
1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định trong trường hợp cụ thể đó người bị
thiệt hại có bị tổn thất về tinh thần hay không và mức độ tổn thất về tinh thần.
Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề
nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân...
c) Mức bồi thường khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất
về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương, tính theo mức lương tối
thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
2. Thiệt hại
do tính mạng bị xâm phạm
2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí
được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị
thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần
II này.
2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai
táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm
liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ
cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận
yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...
2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những
người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết được thực hiện
theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.4 mục 1 Phần II này.
2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất
về tinh thần cho những người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân.
a) Người được nhận khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích gần
gũi nhất của nạn nhân bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng nạn nhân.
b) Không phải trong mọi trường hợp
tính mạng bị xâm phạm thì những người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân
đương nhiên được bồi thường khoản tiền bù đắp về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng
dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định trong trường
hợp cụ thể đó, những người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân có bị tổn thất
về tinh thần hay không và mức độ tổn thất về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn
thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của nạn nhân trong gia đình, mối quan
hệ trong cuộc sống giữa nạn nhân và những người thân thích gần gũi nhất của nạn
nhân...
c) Mức bồi thường chung khoản tiền
bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích gần gũi nhất của nạn
nhân phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 60
tháng lương, tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời
điểm giải quyết bồi thường.
3. Thiệt hại
do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm gồm có thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị
xâm phạm; thiệt hại do danh dự, uy tín của tổ chức bị xâm phạm.
3.1. Chi phí hợp lý để hạn chế,
khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội
dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho việc
thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm;
tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi
thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính
trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính
công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi
phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu có).
3.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút.
a) Nếu trước khi danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm, người bị xâm phạm có thu nhập thực tế, nhưng do danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm người bị xâm phạm phải thực hiện những công
việc để hạn chế, khắc phục thiệt hại, nên khoản thu nhập thực tế của họ bị mất
hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị
giảm sút đó.
b) Việc xác định thu nhập thực tế
của người bị xâm phạm và việc xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
của người bị xâm phạm được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần
II này.
3.3. Khoản tiền bù đắp tổn thất
về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về
tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được bồi thường cho chính
người bị xâm phạm.
b) Không phải trong mọi trường hợp
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm thì người bị xâm phạm đương nhiên được bồi
thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm
b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định trong trường hợp cụ thể
đó người bị xâm phạm có bị tổn thất về tinh thần hay không và mức độ tổn thất về
tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào hình thức
xâm phạm (bằng lời nói hay đăng trên báo viết hay trên báo hình...), hành vi
xâm phạm, mức độ lan truyền thông tin xúc phạm...
c) Mức bồi thường khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm phải căn cứ vào mức độ tổn thất
về tinh thần, nhưng tối đa không quá 10 tháng lương, tính theo mức lương tối
thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.
4. Thời hạn
hưởng bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm (Điều 616 Bộ Luật
Dân sự)
a) Trong trường hợp người bị thiệt
hại mất hoàn toàn khả năng lao động, thì người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền
bồi thường được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.4 mục 1 Phần II này cho đến khi
chết.
b) Đối với việc cấp dưỡng được
hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.4 mục 1 và tiểu mục 2.3 mục 2 Phần II này chấm
dứt khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 61 Luật hôn nhân và
gia đình.
III. BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA (ĐIỀU 627 BỘ LUẬT DÂN SỰ)
1. Xác định
nguồn nguy hiểm cao độ
a) Khi có phương tiện giao
thông, công trình, vật, chất hoặc loại thú nào đó gây ra thiệt hại để có căn cứ
áp dụng các khoản 2, 3 và 4 Điều 627 BLDS xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, thì phải xác định nguồn gây ra thiệt hại có phải là nguồn nguy hiểm cao độ
hay không.
b) Để xác định nguồn nguy hiểm
cao độ cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 627 Bộ Luật Dân sự và văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
lĩnh vực cụ thể đó. Ví dụ: Để xác định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
thì phải căn cứ vào Luật giao thông đường bộ. Theo quy định tại điểm 13 Điều 3
Luật giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô
tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe
tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật.
2. Xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
a) Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản
lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.
a) Người được chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định
của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ
trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thỏa thuận
khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi
thường.
Ví dụ: Các thỏa thuận sau đây là
không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:
- Thỏa thuận cùng nhau liên đới
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
- Thỏa thuận chủ sở hữu bồi thường
thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ
sở hữu khoản tiền đã bồi thường;
- Ai có điều kiện về kinh tế hơn
thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước.
Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi
thường thiệt hại.
Ví dụ: Chủ sở hữu biết
người đó không có bằng lái xe ô tô, nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho
họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
c) Về nguyên tắc chung chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi,
trừ các trường hợp sau đây:
- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn
do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia
giao thông theo đúng quy định của pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để
tự tử và hậu quả là người này bị thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này
chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ôtô đó
không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ôtô) gây ra.
- Thiệt hại xảy ra trong trường
hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Cần chú ý là trong trường hợp pháp luật có quy định khác về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp bất khả
kháng hoặc tình thế cấp thiết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện
theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
d) Người chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp
pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật).
Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở
hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ
bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ
các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
đ) Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải
xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có
phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định
ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô
đã giao xe ôtô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và
gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:
- Nếu B chỉ được A thuê lái xe
ôtô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe
ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại.
- Nếu B được A giao xe ô tô
thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ôtô
đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải bồi thường thiệt hại.
Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp
đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ôtô
đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.
IV. HIỆU LỰC
THI HÀNH CỦA NGHỊ QUYẾT
1. Nghị quyết này đã được Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 28 tháng 4 năm 2004 và có hiệu
lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Tòa án nhân
dân tối cao được ban hành trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực về các vấn đề
được hướng dẫn trong Nghị quyết này đều bãi bỏ.
2. Đối với những trường hợp bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể
về bồi thường, thì việc giải quyết được thực hiện theo quy định của văn bản quy
phạm pháp luật đó.
3. Đối với những vụ án trong đó
có giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hướng dẫn
trong Nghị quyết này mà Tòa án đã thụ lý nhưng chưa xét xử sơ thẩm, xét xử phúc
thẩm hoặc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, thì áp dụng Nghị quyết này để giải
quyết.
4. Đối với các bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi
hành mà trong đó có quyết định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hướng
dẫn trong Nghị quyết này, thì không áp dụng Nghị quyết này để kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, trừ trường hợp việc kháng nghị bản án, quyết
định có những căn cứ khác.