Nghị định 60-CP năm 1993 ban hành Quy chế trại giam
Số hiệu | 60-CP |
Ngày ban hành | 16/09/1993 |
Ngày có hiệu lực | 16/09/1993 |
Loại văn bản | Nghị định |
Cơ quan ban hành | Chính phủ |
Người ký | Phan Văn Khải |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 60-CP |
Hà Nội, ngày 16 tháng 9 năm 1993 |
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 60-CP NGÀY 16-9-1993 BAN HÀNH QUY CHẾ TRẠI GIAM
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Điều 37 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù;
Theo dề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.- Ban hành kèm theo Nghị định này Quy chế trại giam.
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |
QUY CHẾ
TRẠI GIAM
(Ban hành kèm theo Nghị định số 60-CP ngày 16-9-1993 của Chính phủ)
Điều 5.- Giám thị trại giam có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Điều hành và chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của trại giam theo đúng quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù.
- Được quyết định những vấn đề thuộc hoạt động của trại giam trong khuôn khổ pháp luật hoặc do cấp trên giao cho và chịu trách nhiệm cá nhân về kết quả thi hành những quyết định đó.
- Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định.
Phó Giám thị giúp Giám thị làm nhiệm vụ theo sự phân công của Giám thị.
- Giám thị, Phó Giám thị, quản giáo, chuyên viên, nhân viên, kỹ thuật viên, sĩ quan, chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ phải là những người có phẩm chất chính trị tốt, trung thành với Đảng, với chế độ, có ý thức tổ chức, kỷ luật, nắm vững chính sách, hiểu biết và tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
- Giám thị và Phó Giám thị phải là người đã tốt nghiệp đại học cảnh sát hoặc đại học an ninh hoặc đại học luật hoặc có trình độ tương đương.
- Quản giáo, chỉ huy lực lượng bảo vệ phải là người đã tốt nghiệp trung học cảnh sát hoặc trung học an ninh hoặc có trình độ tương đương.
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 60-CP |
Hà Nội, ngày 16 tháng 9 năm 1993 |
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 60-CP NGÀY 16-9-1993 BAN HÀNH QUY CHẾ TRẠI GIAM
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Điều 37 Pháp lệnh Thi hành án phạt tù;
Theo dề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.- Ban hành kèm theo Nghị định này Quy chế trại giam.
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |
QUY CHẾ
TRẠI GIAM
(Ban hành kèm theo Nghị định số 60-CP ngày 16-9-1993 của Chính phủ)
Điều 5.- Giám thị trại giam có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Điều hành và chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của trại giam theo đúng quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù.
- Được quyết định những vấn đề thuộc hoạt động của trại giam trong khuôn khổ pháp luật hoặc do cấp trên giao cho và chịu trách nhiệm cá nhân về kết quả thi hành những quyết định đó.
- Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định.
Phó Giám thị giúp Giám thị làm nhiệm vụ theo sự phân công của Giám thị.
- Giám thị, Phó Giám thị, quản giáo, chuyên viên, nhân viên, kỹ thuật viên, sĩ quan, chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ phải là những người có phẩm chất chính trị tốt, trung thành với Đảng, với chế độ, có ý thức tổ chức, kỷ luật, nắm vững chính sách, hiểu biết và tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
- Giám thị và Phó Giám thị phải là người đã tốt nghiệp đại học cảnh sát hoặc đại học an ninh hoặc đại học luật hoặc có trình độ tương đương.
- Quản giáo, chỉ huy lực lượng bảo vệ phải là người đã tốt nghiệp trung học cảnh sát hoặc trung học an ninh hoặc có trình độ tương đương.
- Chuyên viên, nhân viên, kỹ thuật viên phải là người được đào tạo, nắm vững những kiến thức về lĩnh vực chuyên môn mà mình đảm nhiệm.
- Chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ phải là những người đã được huấn luyện về nghiệp vụ bảo vệ trại giam.
CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ, GIAM GIỮ, DẪN GIẢI PHẠM NHÂN
Phạm nhân là nữ hoặc là người chưa thành niên phải được giam ở khu vực riêng trong từng trại.
1. Khi đưa phạm nhân vào trại trong hồ sơ phải có:
- Bản án phạt tù hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
- Quyết định thi hành bản án.
- Danh chỉ bản của phạm nhân.
- Hồ sơ sức khoẻ.
- Những tài liệu khác có liên quan đến nhân thân phạm nhân (nếu có).
- Nhận xét thái độ chấp hành quyết định thi hành án, việc thi hành án tại nơi giam trước đây của phạm nhân (nếu là phạm nhân chuyển trại).
2. Phạm nhân chỉ được đưa vào buồng giam những đồ dùng cần cho cá nhân; nếu có tiền, tư trang (không dùng đến) phải gửi vào bộ phận lưu ký của trại. Những vật thuộc danh mục cấm không được mang vào buồng giam, nếu phải huỷ bỏ thì Giám thị tổ chức huỷ bỏ (có biên bản huỷ).
Sau khi mới vào trại, y tế của trại phải khám sức khoẻ của phạm nhân xác định tình trạng sức khoẻ, bệnh tật của họ để lập hồ sơ sức khoẻ phục vụ cho việc giam giữ, lao động.
Căn cứ vào đặc điểm nhân thân, tội trạng của phạm nhân, Giám thị trại giam ra quyết định giao phạm nhân về từng đội trong từng trại giam.
3. Phạm nhân phải học nội quy, quy chế trại giam và phải chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy chế đó.
Lệnh trích xuất phạm nhân ra khỏi trại giam do Cục trưởng Cục Quản lý trại giam (Bộ Nội vụ) và Cục trưởng Cục điều tra hình sự (Bộ Quốc phòng) ký.
Lệnh trích xuất phạm nhân phải ghi rõ mục đích và thời hạn trích xuất; phải đưa phạm nhân về trại cũ đúng thời gian đã ghi trong lệnh trích xuất; nơi nhận phạm nhân có trách nhiệm đưa phạm nhân đi theo lệnh trích xuất và giao trả lại trại giam cũ. Phải lập biên bản giao nhận phạm nhân.
Thời gian trích xuất phạm nhân được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Tất cả phạm nhân đều phải ở trong buồng giam, khi ra khỏi buồng giam phải được phép của Giám thị trại giam.
Định kỳ hoặc bất thường, Giám thị có thể kiểm tra người, tư trang, chỗ ở của phạm nhân nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, quy chế trại giam.
Khi cho phạm nhân đi chữa bệnh, điều trị tại bệnh viện ngoài phạm vi trại thì Giám thị trại giam phải tổ chức lực lượng giải và bảo vệ an toàn.
Trại giam giao giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù cho người đó về Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, đơn vị nơi họ sẽ về cư trú và cấp tiền tàu xe, tiền đi đường và một bộ quần áo thường (nếu người chấp hành xong hình phạt tù không có) để họ trở về nơi cư trú.
2. Người chấp hành xong hình phạt tù được trả lại đầy đủ những đồ vật, tiền đã gửi lưu ký tại trại và tiền thưởng lao động trong thời gian chấp hành án (nếu có).
3. Hai tháng trước khi phạm nhân hết hạn chấp hành hình phạt tù, Giám thị trại giam thông báo trước (bằng văn bản hoặc cử cán bộ làm việc trực tiếp) về kết quả thi hành án, những hình phạt bổ sung phải chấp hành (nếu có) và những thông tin cần thiết khác về phạm nhân cho chính quyền địa phương hoặc đơn vị nơi phạm nhân trở về sinh sống để có điều kiện sắp xếp tạo lập cuộc sống bình thường cho họ.
Trường hợp người chấp hành xong hình phạt tù không rõ quê quán, không còn người thân thích hoặc cơ quan, đơn vị cũ không tiếp nhận và bản thân họ cũng không có chỗ ở khác thì Giám thị liên hệ với chính quyền địa phương, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội... hoặc trại có thể tiếp nhận họ sinh sống và lao động theo nguyện vọng.
CHẾ ĐỘ ĂN, MẶC, Ở, SINH HOẠT VÀ CHỮA BỆNH CỦA PHẠM NHÂN
1. Tiêu chuẩn mức ăn tối thiểu của phạm nhân trong 1 tháng quy định như sau:
Gạo 15 kg; thịt, cá 800 gam; đường 300 gam; muối 800 gam; rau xanh 15 kg; nước chấm 1/2 lít; chất đốt tương đương 12 kg củi. Định lượng này do Nhà nước cấp và quy ra tiền theo thời giá thị trường ở từng địa phương.
- Đối với phạm nhân lao động nặng, độc hại, định lượng ăn trong tháng có thể được tăng thêm từ 1,2 đến 2 lần tiêu chuẩn định lượng chung.
Ngày lễ, Tết (theo quy định của Nhà nước) phạm nhân được ăn thêm, nhưng không quá 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
2. Phạm nhân được ăn theo khẩu phần, uống nước đun sôi, được sử dụng quà của gia đình và tiền được thưởng trong lao động để ăn thêm, nhưng không được quá 3 lần định lượng trung bình hàng tháng mà Nhà nước quy định cho mỗi phạm nhân; cấm phạm nhân không được uống rượu, bia và các chất kích thích khác. Việc nấu ăn cho phạm nhân do phạm nhân đảm nhiệm dưới sự giám sát, kiểm tra của trại.
Điều 17.- Một năm, phạm nhân được phát 2 bộ quần áo dài theo mẫu thống nhất, 2 bộ quần áo lót, 2 khăn mặt, 1 đôi dép. Hàng tháng phạm nhân được cấp 0,2 kg xà phòng giặt (phạm nhân nữ được cấp thêm những đồ dùng cần thiết cho vệ sinh của nữ), một năm phạm nhân được cấp 1 chiếu, 4 năm được cấp 1 màn, 1 chăn. Đối với những vùng rét phạm nhân được phát áo ấm dùng trong 5 năm; mẫu, màu quần áo và vùng được cấp phát áo ấm do Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng quy định.
Căn cứ vào điều kiện, môi trường và công việc cụ thể, khi lao động phạm nhân được cấp những phương tiện bảo hộ lao động cần thiết.
Phạm nhân được đọc sách, báo theo quy định của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng; nghe Đài tiếng nói Việt Nam, đài địa phương và được xem truyền hình vào những thời gian nhất định.
1. Trong thời gian ở trại, phạm nhân được khám sức khoẻ định kỳ ít nhất một năm một lần.
Giám thị trại giam dựa vào kết luận phân loại sức khoẻ để quy định chế độ lao động, học tập đối với từng phạm nhân cho phù hợp.
2. Đối với phạm nhân nghi mắc bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, Giám thị trại giam đề nghị cơ quan quản lý thi hành án phạt tù trưng cầu giám định pháp y. Sau khi Hội đồng giám định pháp y kết luận người đó mắc bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác tới mức mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình, thì Giám thị trại giam đề nghị Toà án cấp tỉnh nơi trại đóng ra quyết định đưa người đó vào cơ sở chuyên khoa y tế để chữa bệnh bắt buộc, Bộ Y tế tổ chức các cơ sở chuyên khoa y tế để chữa bệnh bắt buộc cho phạm nhân, Bộ Y tế cùng với Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính thống nhất việc tổ chức cơ sở chuyên khoa chữa bệnh bắt buộc, quy định tiêu chuẩn ăn uống, nuôi dưỡng, chữa bệnh, quản lý, canh giữ, các thủ tục nhập viện, ra viện.
3. Khi phạm nhân bị ốm đau thì căn cứ vào mức độ tính chất của từng loại bệnh và chỉ định của thầy thuốc, Giám thị trại giam xét cho nghỉ hoặc hạn chế thời gian, cường độ lao động, cho điều trị tập trung tại bệnh xá của trại, nếu bệnh nặng vượt quá khả năng điều trị của trại thì chuyển đến các bệnh viện của Nhà nước, Giám thị phải thông báo những trường hợp này cho thân nhân người đó biết.
Trường hợp phạm nhân chết hoặc bị thương do tai nạn lao động, Giám thị trại giam phải làm các thủ tục cần thiết như trên và bảo đảm chế độ trợ cấp theo quy định của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội.
2. Kinh phí về cấp phát thuốc, khám chữa bệnh cho phạm nhân; về trợ cấp tai nạn lao động, khám nghiệm, mai táng phạm nhân chết do ngân sách Nhà nước cấp theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng.
CHẾ ĐỘ LAO ĐỘNG, HỌC TẬP CỦA PHẠM NHÂN
Trong trường hợp có công việc đột xuất, Giám thị có thể yêu cầu phạm nhân làm thêm giờ, nhưng không được quá 2 giờ/ngày và sẽ được nghỉ bù.
2. Ngoài giờ lao động hàng ngày theo quy định, trại có thể tổ chức cho phạm nhân tự lao động cải thiện thêm cho bữa ăn theo nguyện vọng của cá nhân, nhưng phải tuân thủ mọi nội quy, quy chế trại giam.
3. Nữ phạm nhân có thai được nghỉ trước và sau khi đẻ theo quy định chung của Nhà nước. Trong thời gian nghỉ đẻ được hưởng các chế độ theo quy định của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính.
Nữ phạm nhân có con nhỏ dưới 2 tuổi ở chung một buồng, nếu con trên 2 tuổi phải gửi con về gia đình hoặc người thân nuôi. Trường hợp họ không có người thân thì Ban Giám thị trại liên hệ gửi con của phạm nhân vào các trại xã hội; các tiêu chuẩn ăn, mặc, sinh hoạt ở trại được Nhà nước cấp theo quy định của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính, nơi có đông trẻ nhỏ, trại phải tổ chức nhà trẻ trong giờ phạm nhân đi lao động.
2. Phạm nhân sản xuất vượt chỉ tiêu, kế hoạch thì trại sẽ sử dụng số vượt chỉ tiêu, kế hoạch này để thưởng cho phạm nhân trực tiếp lao động, cán bộ trực tiếp quản lý và bổ sung một phần vào quỹ phúc lợi của trại. Phạm nhân được sử dụng số tiền thưởng này để ăn thêm, mua các vật dụng sinh hoạt, giúp đỡ gia đình hoặc gửi lưu ký tại trại và nhận lại khi ra trại.
1. Phạm nhân được học văn hoá để xoá mù chữ, phạm nhân là người chưa thành niên được phổ cập tiểu học.
Căn cứ vào điều kiện cụ thể của trại giam. Giám thị sắp xếp thời gian học văn hoá cho phạm nhân là đối tượng xoá mù chữ và người chưa thành niên, mỗi tuần học 3 buổi, mỗi buổi học 4 giờ trong thời gian làm việc.
2. Tất cả phạm nhân đều được nghe phổ biến thời sự, chính sách, được học các chương trình giáo dục công dân vào thời gian thích hợp (mỗi tuần học 2 buổi, mỗi buổi học 2 giờ).
3. Phạm nhân được học nghề phù hợp với điều kiện cụ thể của trại giam. Việc dạy nghề với người chưa thành niên là bắt buộc.
Ban tự quản hỗ trợ Giám thị trại giam trong việc giữ gìn trật tự, vệ sinh, nội quy, nếp sống văn hoá trong trại giam và trong từng nhà giam. Đề đạt kiến nghị, yêu cầu, nguyện vọng của phạm nhân với Ban Giám thị và phải chịu sự theo dõi giám sát của Giám thị trại giam.
CHẾ ĐỘ THĂM GẶP, NHẬN, GỬI THƯ, QUÀ, KHIẾU TỐ
Mỗi lần gặp thân nhân không quá một giờ, trừ những lần Giám thị đồng ý thì có thể được gặp lâu hơn, nhưng cũng không quá 3 giờ.
Phạm nhân ở trại loại 2, loại 3 có nhiều cố gắng trong lao động, nghiêm chỉnh chấp hành mọi quy chế, nội quy của trại giam được gặp gỡ thân nhân (là vợ hoặc chồng) từ 24 giờ đến 48 giờ. Đối với phạm nhân thuộc trại loại 1, nếu có thành tích đặc biệt cũng được Giám thị trại xét cho phép gặp thân nhân (là vợ hoặc chồng) đến 24 giờ.
2. Khi gặp gỡ thân nhân, phạm nhân được nhận quà, thư và tiền. Riêng tiền mặt, phạm nhân phải nộp vào bộ phận lưu ký của trại và sử dụng theo quy định tại Điều 12 Quy chế này. Đối với phạm nhân được gặp gỡ thân nhân từ 24 giờ trở lên thì được ở lại buồng riêng trong phạm vi nhà tiếp đón của trại.
3. Thân nhân của phạm nhân đến thăm phạm nhân phải có đơn xin thăm (có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc đơn vị cư trú hoặc công tác).
Phạm nhân ở trại loại 2, loại 3 mỗi tháng được nhận 1 gói quà (không quá 7 kg). Phạm nhân ở trại loại 1 mỗi tháng được nhận 1 gói quà (không quá 5 kg). Trước khi phạm nhân nhận quà, cán bộ trại giam phải kiểm tra.
Các cơ quan, đơn vị khi nhận được đơn, thư khiếu nại, tố cáo của phạm nhân phải xác minh, làm rõ sự việc và trả lời cho phạm nhân theo đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
THỦ TỤC TIẾP NHẬN PHẠM NHÂN ĐẦU THÚ, GIẢM THỜI HẠN TẠM ĐÌNH CHỈ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
2. Đối với phạm nhân chấp hành án tại một trại giam đã bỏ trốn nay đến đầu thú tại một trại giam khác, sau khi lập biên bản về việc đầu thú, Giám thị trại giam phải báo ngay cho cơ quan điều tra hữu quan và trại giam nơi phạm nhân bỏ trốn để nhận họ về trại cho tiếp tục thi hành án và chờ quyết định của cơ quan điều tra.
Việc xét đề nghị tạm đình chỉ hoặc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù được tiến hành thường xuyên hoặc đột xuất đối với mỗi phạm nhân, nếu họ có đủ điều kiện.
CHẾ ĐỘ KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT ĐỐI VỚI PHẠM NHÂN
- Biểu dương;
- Thưởng tiền hoặc hiện vật;
- Tăng số lần và thời gian gặp gỡ thân nhân, tăng số lần và số lượng quà được nhận;
- Được đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật;
Các quyết định khen thưởng phải bằng văn bản lưu vào hồ sơ của phạm nhân.
- Cảnh cáo;
- Hạn chế số lần và lượng quà, thư được nhận, hạn chế số lần và thời gian gặp thân nhân;
- Bị giam tại buồng kỷ luật đến 7 ngày và có thể bị gia hạn đến 15 ngày. Phạm nhân bị giam tại buồng kỷ luật phải lao động trong khu vực rào vây do Giám thị quy định. Trong thời gian này nếu phạm nhân có tiến bộ sẽ được Giám thị quyết định giảm thời gian phạt giam tại buồng kỷ luật;
- Nếu họ vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì đề nghị truy tố.
2. Phạm nhân phải bồi thường nếu họ làm hư hỏng, mất mát tài sản của trại giam hoặc của phạm nhân khác.
3. Các quyết định kỷ luật phải bằng văn bản lưu vào hồ sơ của phạm nhân.
Điều 34.- Phạm nhân là người nước ngoài được giam ở khu vực riêng trong trại giam.
Các tiêu chuẩn về ăn, mặc, ở, chế độ lao động, học tập, nhận gửi thư, gửi quà, việc khiếu nại, tố cáo, việc xét giảm, tạm đình chỉ thi hành án, khen thưởng, kỷ luật đối với phạm nhân là người nước ngoài đều thực hiện theo các quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù và Quy chế này, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và tham gia có quy định khác.