HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
39-CP
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 4 năm 1963
|
NGHỊ ĐỊNH
SỐ 39-C P NGÀY 5-4-1963 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ BAN HÀNH ĐIỀU
LỆ TẠM THỜI VỀ SĂN, BẮT CHIM, THÚ RỪNG
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng
Chính phủ ngày 14 tháng 7 năm 1960 ;
Theo đề nghị của ông Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp ;
Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong Hội nghị của Thường vụ Hội đồng
Chính phủ ngày 12 tháng 12 năm 1962;
NGHỊ ĐỊNH :
Điều 1.
Nay ban hành, kèm theo Nghị định này, điều lệ tạm thời về săn, bắt chim, thú rừng.
Điều 2.
Ông Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, ông Bộ trưởng Bộ Công an, các ông Chủ
tịch Uỷ ban hành chính khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu
trách nhiệm thi hành Nghị định này.
ĐIỀU LỆ TẠM THỜI
VỀ SĂN, BẮT CHIM, THÚ RỪNG CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG
HOÀ
MỤC ĐÍCH CỦA
ĐIỀU LỆ
Chim, thú rừng là một nguồn tài
nguyên phong phú của nước ta, có giá trị về kinh tế và khoa học. Đó là tài sản
chung mà mọi người đều có nhiệm vụ bảo vệ và làm cho ngày càng dồi dào.
Việc săn, bắt chim, thú rừng
không phân biệt giống, loài, mùa săn và bằng mọi phưong tiện, đã gây nhiều tổn
thất đối với các loài chim, thú rừng ở nước ta, có những loài quý đến nay gần
như bị tiêu diệt.
Để bảo vệ và phát triển những loại
có ích, hiếm và quý, đồng thời khai thác hợp lý tài nguyên về chim, thú rừng, cần
quy định việc săn, bắt chim, thú rừng bằng một điều lệ, bước đầu là một điều lệ
tạm thời, nhằm :
- Bảo vệ các loài chim, thú rừng
có ích, hiếm và quý, và bảo vệ chim, thú rừng trong mùa sinh đẻ, trong những
trường hợp chúng không phá hoại sản xuất hoặc trực tiếp đe doạ tính mạng người;
Ngăn cấm dùng các phương tiện
săn, bắt nguy hiểm cho người và gia súc, giết hại hàng loạt chim, thú rừng;
- Dần dần quản lý việc săn, bắt
chim. thú rừng với mục đích kinh doanh, thể thao, giải trí; hướng dẫn việc săn,
bắt chim., thú rừng của đồng bào miền núi, có chiếu cố thích đáng đến phong tục,
tập quán của mỗi dân tộc ở mỗi nơi.
NỘI DUNG CỦA
ĐIỀU LỆ
Điều 1.
Không ai
được bắn chết, bẫy chết, làm bị thương, bắt sống, thu nhặt trứng, đào hang phá
tổ những loài chim, thú rừng, quý hoặc hiếm sau đây :
1. Công
2. Trĩ
3. Gà sao, gà lôi
4. Tê giác
5. Heo voi
6. Voi
7. Trâu rừng
8. Bò tót (minh)
9. Bò rừng
10. Hươu sao
11. Hươu sa
12. Cheo cheo
13. Sóc bay
14. Cầy bay
15. Chồn mực
16. Cu ly (cù lân)
17. Vượn
18. Véo (vá, cắng, tắc rộc)
19. Tê tê (trút, xuyên sơn
giáp).
Ngoài số chim, thú rừng ấy, Tổng
cục Lâm nghiệp có thể đề nghị bổ sung thêm vào danh sách kể trên, nếu sau này
thấy cần thiết.
Điều 2.
Có thể bắn
chết, bẫy chết, hoặc bắt sống các loại thú rừng sau đây trong những trường hợp
chúng trực tiếp uy hiếp tính mạng ngươì :
1. Hổ (cọp, hùm, khái )...
2. Báo, beo, gấm
3. Gấu
4. Chó rừng.
Điều 3.
Để bảo vệ
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, cần tìm mọi cách xua đuổi các loài chim, thú rừng
đến phá hoại sản xuất; nếu xua đuổi không có kết quả thì có thể bẫy sống, bắt sống,
hoặc bẫy chết, bắn chết chúng trong phạm vi đất đai trồng trọt, chăn nuôi và liền
chung quanh phạm vi đó.
Đối với voi đến phá hoại đồng ruộng,
nương rẫy, vườn tược, nhà cửa, chỉ được bắn chết nếu đã tích cực xua đuổi mà
không có hiệu quả. Sau khi bắn chết voi, phải báo cáo lên Uỷ ban hành chính huyện
sở tại.
Điều 4.
Nhân dân có thể săn, bắt các loài chim, thú rừng ngoài những loài đã kể trong
Điều 1 và Điều 2 nói trên với mục đích cải thiện đời sống, giải trí, thể thao,
trong mùa săn do Tổng cục Lâm nghiệp quy định hàng năm, và ngoài những khu cấm
kể trong Điều 7 dưới đây.
Điều 5.
Để phục vụ yêu cầu khoa học, văn hoá, chăn nuôi, xuất khẩu, hoặc những yêu cầu
đặc biệt khác, Tổng cục Lâm nghiệp được tổ chức hoặc cho phép tổ chức săn bắt một
số loài chim, thú rừng, kể cả những loài ghi trong điều 1, và điều 2 nói trên
trong hoặc ngoài mùa săn, trong cả những khu vực cấm săn kể trong điều 7 dưới
đây.
Điều 6.
Để bảo đảm an toàn cho người và gia súc, để tránh làm bị thương hoặc giết hại
chim, thú rừng hàng loạt, để bảo vệ rừng cùng đất rừng, cấm dùng những phương
pháp và phương tiện săn, bắt kể dưới đây :
1. Đốt đồng cỏ, bụi rậm; rừng
cây để săn, bắt.
2. Soi đèn săn đêm.
3. Gài súng.
4. Súng trận và súng trận cải biến,
đạn bọc đồng đầu nhọn (trừ trường hợp : Công an, bộ đội, dân quân du kích dùng
bắn thú rừng để bảo vệ người và bảo vệ sản xuất ).
5. Mìn, lựu đạn.
6. Tên tẩm thuốc độc.
7. Chất độc để đánh bả.
8. Hầm hố cắm chông.
9. Bẫy kiềng lớn và các loại cạm
bẫy nguy hiểm khác như bẫy cắm chông, bẫy gài lao, bẫy sập dùng khúc gỗ lớn hoặc
răng sắt lớn.
Điều 7 Để
bảo đảm an ninh chung và tạo điều kiện cho các loài chim, thú rừng sinh sống
yên ổn, cấm săn bắt trong các khu vực sau đây :
1. Những nơi tập trung đông người
như nội thành, nội thị (thị xã, thị trấn) v.v...
2. Những khu bảo vệ thiên nhiên,
những khu dự trữ chim, thú rừng và những khu chăn nuôi đã được Chính phủ quy định.
Điều 8. Để
chim, thú rừng có điều kiện sinh sản và phát triển, Uỷ ban hành chính khu, tỉnh
sẽ quy định việc phân chia đất săn, bắt của địa phương mình thành nhiều khoảng,
có ranh giới tự nhiên rõ ràng, và sẽ lần lượt quyết định việc cấm săn, bắt ở từng
khoảng, trong thời gian cần thiết, theo sự hướng dẫn của Tổng cục Lâm nghiệp.
Điều 9.
Muốn săn,
bắt chim , thú rừng với mực đích cải thiện đời sống, giải trí, thể thao, phải
xin cấp giấy phép săn, bắt tại cơ quan lâm nghiệp (Sở, Ty, Hạt, do Tổng cục Lâm
nghiệp uỷ nhiệm), trừ trường hợp săn, bắt bằng những phương tiện thô so như ống
xì đồng, que dính nhựa, lồng bẫy chim, lưới nhỏ bẫy chim, giáo mác, cung nỏ,
v.v...
Cơ quan Lâm, nghiệp chỉ cấp giấy
phép săn bằng súng cho những người đã được cơ quan Công an cấp giấy phép dùng
súng.
Điều 10.
Nhân dân miền núi săn, bắt chim, thú rừng với mục đích cải thiện đời sống, giải
trí, thể thao, không phải xin cấp giấy phép săn, bắt, nhưng phải theo những điều
kiện ghi trong điều 4 trên đây.
Điều 11.
Giấy phép săn, bắt chim, thú rừng có hai loại :
1. Giấy phép loại A để săn, bắt
các loài thú rừng nhỏ như chồn, cầy, don, dím, v.v.. và các loài chim.
2. Giấy phép loại B để săn, bắt
một số lượng nhất định (tuỳ theo trữ lượng thú rừng của mỗi khu, tỉnh) các loài
thú rừng lớn sau đây : Nai , hoãng, sơn dương, lợn rừng.
Giấy phép săn bắt chim, thú rừng
có giá trị trong một năm, kể từ ngày cấp.
Điều 12.
Người được cấp giấyphép săn, bắt chim, thú rừng phải nộp một khoản lệ phí như
sau :
- Giấy phép loại A = 5 đồng (năm
đồng).
- Giấy phép loại B = mỗi đầu thú
5 đồng (năm đồng).
Các chi tiết khác về giấy phép
săn, bắt chim, thú rừng do Tổng cục Lâm nghiệp quy định.
Điều 13. Những
cá nhân hoặc tập thể vi phạm điều lệ này, tuỳ theo mức độ nặng, nhẹ, số lần vi
phạm, sẽ bị xử lý theo một trong các hình phạt sau đây :
1. Cảnh cáo.
2. Tịch thu chim, thú rừng đã
săn, bắt trái phép.
3. Tịch thu phương tiện săn, bắt.
4. thu hồi giấy phép, cấm săn, bắt
một thời gian hoặc cấm vĩnh viễn.
Uỷ viên Uỷ ban hành chính phụ
trách công an xã, nhân viên cảnh sát đang thi hành nhiệm vụ, cán bộ lâm nghiêp
cấp Trưởng đội hoặc Trưởng hạt trở lên, có quyền lập biên bản các vụ vi phạm điều
lệ săn, bắt chim, thú rừng, tạm giữ tang vật để đợi quyết định của Uỷ ban hành
chính huyện, của Khu hoặc Sở Công an thành phố.
Trong khi chờ quyết định , nếu
chim, thú rừng tịch thu đã chết hoặc sắp chết, thì cần phải bán ngay cho cơ
quan thu mua hoặc nhân dân , theo giá của địa phương, và tạm gửi số tiền đó vào
Ngân hàng.
Điều 14.
Những cá nhân hoặc tập thể có thành tích trong những công tác sau đây sẽ đượcc
Uỷ ban hành chính khu, tỉnh hoặc huyện khen thưởng :
1. Tuyên truyền, giáo dục quần
chúng thi hành đúng đắn điều lệ săn, bắt chim, thú rừng.
2. Ngăn chặn hoặc phát hiện các
vụ vi phạm điều lệ săn, bắt chim, thú rừng.
3. Anh dũng bảo vệ tính mạng người
chống thú dữ.
4. Kết hợp việc bảo vệ sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp với bảo vệ chim, thú rừng, bảo vệ các loài chim, thú rừng
quý, hiếm và có ích.
Điều 15.
Điều lệ
này thi hành kể từ ngày ban hành.
Đối với đồng bào miền núi, việc
áp dụng điều lệ này sẽ tiến hành từng bước.
Uỷ ban hành chính các tỉnh miền
núi sẽ ấn định thời gian bắt đầu thi hành điều lệ này ở địa phương mình đối với
đồng bào miền núi.
Điều lệ này ban hành kèm theo
Nghị định số 39-CP ngày 5 tháng 4 năm 1963 của Hội đồng Chính phủ.