HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
131-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 8 năm 1987
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 131-HĐBT NGÀY 27-8-1987 QUY ĐỊNH VIỆC
NHẬP KHẨU VÀ TÁI XUẤT KHẨU Ô-TÔ VÀ CÁC VẬT DỤNG CẦN THIẾT CHO NHU CẦU CÔNG TÁC
VÀ SINH HOẠT CỦA CÁC CƠ QUAN ĐẠI DIỆN NƯỚC NGOÀI VÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI NƯỚC CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Luật Tổ
chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4 tháng 7 năm 1981;
Căn cứ Điều lệ Hải quan do Hội đồng Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số
3-CP ngày 27-2-1960;
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu công tác và sinh hoạt của các cơ
quan đại diện nước ngoài và người nước ngoài tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam;
Xét đề nghị của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan và ý kiến Bộ Ngoại giao.
NGHỊ ĐỊNH:
Điều
1. Nay quy định việc nhập khẩu và tái xuất khẩu ô-tô và các vật dụng cần
thiết cho nhu cầu công tác sinh hoạt của các cơ quan đại diện nước ngoài và người
nước ngoài tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Những đối tượng
sau đây được nhập khẩu và tái xuất khẩu ô-tô và những vật dụng cần thiết phục vụ
cho nhu cầu công tác và sinh hoạt (có danh mục kèm theo):
1. Các cơ quan đại diện ngoại
giao nước ngoài tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức quốc
tế có trụ sở thường trực tại Việt Nam được hưởng quy chế ưu đãi miễn trừ ngoại
giao theo quy định của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
2. Những người có thân phận ngoại
giao của các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài và những viên chức thuộc
các tổ chức quốc tế tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hưởng quy
chế ưu đãi miễn trừ ngoại giao theo các văn bản chính thức mà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia ký kết (kể cả những thành viên trong gia đình họ
cùng đi).
3. Những nhân
viên hành chính, kỹ thuật và nhân viên phục vụ của các cơ quan nói ở điểm 1 điều
này và những thành viên trong gia đình họ không phải là người Việt Nam , được
xác nhận là "người cư trú".
Điều
2. Các vật dụng kể từ số thứ tự thứ 1 đến thứ 5 trong danh mục kèm theo được
phép nhập khẩu sử dụng lâu dài cho nhu cầu công tác và sinh hoạt là loại hàng tạm
nhập sẽ phải tái xuất.
2. Các vật dụng kể từ số thứ tự
thứ 6 đến 8 trong danh mục kèm theo được nhập khẩu ba (3) tháng một (1) lần là
loại hàng tiêu dùng, không được chuyển nhượng tại Việt Nam.
3. Số lượng ô-tô và các vật dụng
khác cho nhu cầu công tác và sinh hoạt của từng đối tượng nói ở điều 1 được quy
định trong danh mục kèm theo.
Điều
3.
1. Những đối
tượng nói ở điều 1, khi nhập khẩu các vật dụng cần thiết cho nhu cầu công tác
và sinh hoạt (dù là vật dụng có ghi hoặc không ghi trong danh mục), phải xin
phép trước Tổng cục Hải quan. Nếu được cấp giấy phép nhập khẩu thì:
a) Những đối tượng nói ở điểm 1
và 2 của điều 1 khi nhập khẩu các vật dụng cần thiết cho nhu cầu công tác và
sinh hoạt thì được miễn thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch nhưng phải nộp các
lệ phí khác.
b) Những đối tượng nói ở điểm 3,
điều 1 trong mười hai (12) tháng đầu khi mới đến nhận nhiệm vụ tại Việt Nam
(tính từ ngày nhập cảnh lần đầu) , nếu nhập khẩu các vật dụng cần thiết cho nhu
cầu công tác và sinh hoạt thì được miễn thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch,
nhưng phải nộp các lệ phí khác. Kể từ tháng thứ mười ba (13) trở đi phải nộp
thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch và các lệ phí khác. Riêng đối với ô- tô
(dù nhập khẩu trong thời điểm nào) cũng phải nộp thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu
dịch và các lệ phí khác.
2. Những vật dụng mang theo người
chỉ cần làm thủ tục với hải quan cửa khẩu. Riêng thuốc lá ngoài tiêu chuẩn ghi
trong danh mục mỗi người khi nhập cảnh được phép mang theo người 5 tút (loại một
tút 10 bao, một bao 20 điếu). Nếu mang quá 5 tút thì số thuốc lá còn lại cũng
như những vật dụng cần thiết khác được tính vào tiêu chuẩn ghi trong danh mục.
3. Các vật dụng cần thiết cho
nhu cầu công tác và sinh hoạt khác (không thuộc loại hàng cấm nhập bằng đường
phi mậu dịch theo danh mục của Tổng cục Hải quan bam hành kèm theo Quyết định số
516-TCHQ/PC ngày 17-4-1987 và không có tên trong danh mục kèm theo Nghị định
này) thì phải xin phép Tổng cục Hải quan bằng văn bản (kèm theo bản kê chi tiết)
và làm thủ tục hải quan. Nếu được cấp giấy phép, thì phải tuân theo quy định của
điểm 1 trên đây.
Điều
4. Khi tái xuất khẩu những vật dụng kể từ số thứ
tự thứ 1 đến thứ 5 trong danh mục :
1. Những đối tượng nói ở các điểm
1 và 2 của điều 1 thì được miễn thuế hàng hoá xuất khẩu phi mậu dịch, nhưng phải
nộp các lệ phí khác.
2. Những đối tượng nói ở điểm 3
của điều 1;
- Nếu khi nhập đã nộp thuế thì
nay được miễn thuế hàng hoá xuất khẩu phi mậu dịch, nhưng phải nộp các lệ phí
khác.
- Nếu khi nhập chưa nộp thuế thì
nay phải nộp thuế hàng hoá xuất khẩu phi mậu dịch (trừ những vật dụng đã nhập
khẩu trong 12 tháng từ khi bắt đầu nhận công tác tại Việt Nam ) và nộp các lệ
phí khác.
3. Sau khi tái xuất, các đối tượng
nói trên đều được nhập bổ sung đủ số lượng quy định trong danh mục.
Điều
5. Những đối tượng nói ở điều 1, nếu mua các vật
dụng từ số tứ tự thứ 1 đến 5 trong danh mục hoặc những vật dụng tương tự khác
(tủ lạnh, máy giặt, v.v...) tại các cửa hàng, Nhà nước của Việt Nam bán thu ngoại
tệ, nếu có hoá đơn hợp lệ, thì khi xuất khẩu những vật dụng đó được miễn thuế
hàng hoá xuất khẩu phi mậu dịch, nhưng phải nộp các lệ phí khác.
Quy định này cũng được áp dụng
trong trường hợp vật dụng được mua bằng tiền Việt Nam (như tiền chuyển đổi qua
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam , tiền lương, phụ cấp v.v...) tại các cửa hàng mậu
dịch quốc doanh của Việt Nam.
Điều
6.
1. Những đối
tượng nói ở điều 1 không được tự ý chuyển nhượng tại Việt Nam các vật dụng đã
nhập khẩu; trong trường hợp đặc biệt, có lý do xác đáng, muốn chuyển nhượng các
vật dụng ghi trong danh mục từ số thứ tự thứ 1 đến 5 phải có công hàm xin phép
Tổng cục Hải quan (thông qua Cục phục vụ ngoại giao đoàn thuộc Bộ Ngoại giao nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Nếu được chuyển nhượng thì chuyển nhượng
cho Cục phục vụ ngoại giao đoàn và giá cả do hai bên thoả thuận. (Riêng đối với
ô-tô việc chuyển nhượng được quy định cụ thể tại điều 7 dưới đây).
2. Về chế độ thuế đối với việc
chuyển nhượng các vật dụng nêu trên được quy định như sau :
a) Các đối tượng nói ở các điểm
1 và 2 điều 1, nếu được phép chuyển nhượng, thì được miễn thuế hàng hoá nhập khẩu
phi mậu dịch, nhưng phải nộp các lệ phí khác.
b) Các đối tượng nói ở điểm 2,
điều 1 nếu được phép chuyển nhượng thì:
- Phải nộp thuế hàng hoá nhập khẩu
phi mậu dịch (nếu khi nhập chưa nộp) và các lệ phí khác.
- Không phải nộp thuế hàng hoá
nhập khẩu phi mậu dịch (nếu khi nhập đã nộp) nhưng phải nộp các lệ phí khác.
Điều
7. Trong trường hợp đặc biệt, có lý do xác đáng
các đối tượng nói ở điều 1 muốn chuyển nhượng ô-tô thì phải tuân theo những điều
kiện dưới đây :
1. Chủ xe hết nhiệm kỳ công tác
hoặc phải về nước trước khi hết nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam, hoặc ô-tô đã sử
dụng tại Việt Nam từ ba (3) năm trở lên (tính từ ngày nhận xe).
2. Những đối tượng nói ở điểm 1
và 2 của điều 1, nếu được phép chuyển nhượng ô-tô cho nhau thì được miễn thuế,
nhưng phải nộp các lệ phí khác; trong trường hợp được phép chuyển nhượng ô-tô
cho những đối tượng nói ở điểm 3, điều 1 thì người mua phải nộp thuế và các lệ
phí khác.
3. Những đối tượng nói ở điểm 3,
điều 1, nếu được phép chuyển nhượng ô-tô cho nhau hoặc cho các đẵú tượng nói ở
các điểm 1 và 2, điều 1 thì :
a) Nếu khi nhập đã nộp thuế thì
được miễn thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch nhưng phải nộp các lệ phí khác.
b) Nếu khi nhập chưa nộp thuế
thì phải nộp thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch và các lệ phí khác.
4. Những đối tượng nói ở điều 1,
sau khi đã chuyển nhượng ô-tô thì được phép tạm nhập ô-tô khác thay thế nhưng
không được vượt quá số lượng quy định trong danh mục. Nếu là cá nhân, thì chỉ được
nhập ô-tô khác thay thế khi thời gian công tác ở Việt Nam còn trên sáu (6)
tháng.
5. Cơ quan đại diện nước ngoài
hoặc cá nhân là người nước ngoài được phép sử dụng ô-tô chuyển nhượng tại Việt
Nam thì phải tính ô-tô đó vào tiêu chuẩn định lượng ghi trong danh mục.
6. Những đối tượng nói ở điều 1
muốn chuyển nhượng ô-tô cho phía Việt Nam thì chỉ được phép chuyển nhượng cho Cục
Phục vụ ngoại giao đoàn. Về nguyên tắc tính thuế và lệ phí trong trường hợp này
:
a) Nếu ô-tô của các đối tượng
nói ở các điểm 1 và 2, điều 1 thì được miễn thuế, nhưng phải nộp lệ phí khác.
b) Nếu ô-tô của các đối tượng
nói ở điểm 3, điều 2 thì áp dụng quy định tại điểm 3 điều này.
Điều
8.
1. Các cơ quan
và mọi người nước ngoài cư trú tại Việt Nam không quy định trong Nghị định này khi
nhập khẩu, xuất khẩu và chuyển nhượng ô-tô tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đều phải nộp thuế hải quan và các lệ phí khác.
2. Những người của các nước láng
giềng được phép nhập cảnh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng đường bộ
(công tác, tham quan, du lịch) trong thời gian ngắn, nếu muốn mang theo ô-tô
con để sử dụng đều phải được cơ quan Hải quan Việt Nam cho phép với điều kiện
khi rời Việt Nam phải đem theo đúng xe đó ra khỏi nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
3. Những người nước ngoài khác tạm
trú (vãng lai, tham quan, du lịch.. .) tại Việt Nam không được mang theo ô-tô
con vào nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều
9.
1. Tất cả các
trường hợp nhập khẩu, tái xuất khẩu các vật dụng theo quy chế này đều phải thực
hiện đầy đủ thủ tục hải quan của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Trong trường hợp có thoả thuận
riêng giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nước hữu quan, thì việc
nhập khẩu và tái xuất khẩu các vật dụng sẽ được áp dụng theo những quy định của
các thoả thuận đó.
3. Những ưu đãi về Hải quan nói
trong Nghị định này được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại.
Điều
10. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Các quy định trước đây
trái với Nghị định này đều bị bãi bỏ.
Mọi hành vi vi phạm các điều khoản
của Nghị định này đều bị xử lý theo luật lệ hải quan và pháp luật hiện hành của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều
11. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan có trách nhiệm hướng dẫn chi tiết việc
thi hành Nghị định này.
Thủ trưởng các Bộ, Uỷ ban Nhà nước,
các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh,
thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định
này.