Nghị định 05-NL-QT-NĐ năm 1956 về việc phân loại rừng, việc khai thác gỗ, củi do Bộ trưởng Bộ Nông Lâm ban hành.

Số hiệu 05-NL-QT-NĐ
Ngày ban hành 23/02/1956
Ngày có hiệu lực 09/03/1956
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Bộ Nông lâm
Người ký Nghiêm Xuân Yêm
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

BỘ NÔNG LÂM
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 05-NL-QT-NĐ

Hà Nội, ngày 23 tháng 02 năm 1956 

 

NGHỊ ĐỊNH

QUY ĐỊNH VIỆC PHÂN LOẠI RỪNG, VIỆC KHAI THÁC GỖ, CỦI.

BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG LÂM

Chiếu nghị quyết của Hội đồng Chính phủ ngày 14-11-1945 thành lập Bộ Canh nông;
Chiếu nghị định số 596-TTg ngày 3 tháng 10 năm 1955 của Thủ tướng Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hòa, ban hành “Điều lệ tạm thời khai thác gỗ, củi”.

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1: - Rừng là tài sản quốc gia do Nhà nước quản lý. Việc quản lý nhằm mục đích bảo vệ, phát triển rừng cho ngày càng phong phú để đảm bảo nhu cầu khai thác trước mắt và lợi ích lâu dài về kinh tế dân sinh của toàn dân. Vì vậy nên mọi người đều có trách nhiệm thi hành đúng các thể lệ của Chính phủ đã ban hành để việc quản lý rừng đạt được nhiều kết quả tốt.

Nghị định này nhằm mục đích quy rõ việc phân loại rừng, việc khai thác gỗ, củi, theo bản điều lệ tạm thời do nghị định của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành (số 596-TTg ngày 3 tháng 10 năm 1955).

Chương 1:

QUY ĐỊNH PHÂN LOẠI RỪNG

Điều 2: - Sẽ liệt vào loại rừng bảo vệ những khu rừng tự nhiên hay gây trồng theo các tiêu chuẩn như sau:

a) Rừng đầu nguồn: có tác dụng bảo vệ nguồn nước uống và nước tưới ruộng cho thôn xóm và cánh đồng ở xung quanh, phạm vi quy định sẽ do nhân dân thôn xóm sử dụng nước uống hoặc nước tưới ruộng, khai hội bình nghị.

Ngoài ra, để đảm bảo mực nước sông ngòi, nhất là các sông ngòi có công trình thuỷ lợi lớn hoặc nhỏ, sẽ quy định một số đầu nguồn và lưu vực xung yếu; rừng ở trong phạm vi các đầu nguồn và lưu vực đã quy định ấy sẽ coi là rừng bảo vệ. Phạm vi quy định sẽ tuỳ theo tình hình mức nước, điều kiện đất và tình hình rừng ở mỗi địa phương. Tiêu chuẩn cụ thể sẽ có thông tư giải thích sau.

b) Rừng ở bãi cát, ven biển, hay cồn cát: có tác dụng, chắn cát bay để bảo vệ làng mạc, ruộng nương, đường giao thông, v.v…

Phạm vi quy định là:

- Một giải rừng cây bề rộng tối thiểu là 25 thước chạy dài theo bờ biển. Ở nơi có cát bay nhiều thì tăng bề rộng lên 50 thước.

- Một giải rừng cây rộng tối thiểu 25 thước chạy dài theo bãi cát hay cồn cát có nạn cát bay. Ở những nơi sức gió mạnh và xung yếu thì bề rộng tối thiểu có thể tăng lên 50 thước.

c) Rừng ở ven suối, ven sông, ven biển, ven làng xóm, ven đường giao thông lớn: có tác dụng chống xói lở bảo vệ đê điều, làng mạc, ruộng nương, đường giao thông.

Phạm vi quy định là:

Một giải rừng rộng từ 25 thước đến 50 thước, tùy theo địa thế núi rừng dốc nhiều hay ít, bề rộng này có thể tăng thêm ở những nơi đang hoặc có thể bị xói lở nghiêm trọng và do Ủy ban Hành chính tỉnh quyết định.

d) Rừng để khảo cứu, thí nghiệm, rừng danh thắng cổ tích có giá trị văn hóa lịch sử, rừng cần thiết cho việc quốc phòng: việc quy định sẽ có thông tư hướng dẫn cụ thể sau.

Điều 3: - Sẽ liệt vào loại rừng đóng, những khu rừng tự nhiên hay gây trồng theo tiêu chuẩn như sau:

a) Những rừng gây trồng còn non, chưa đến tuổi khai thác, tính theo tuổi từng loại cây do thông tư Bộ Nông lâm sẽ quy định.

b) Những rừng đã khai thác nhiều, không còn khả năng sản xuất gỗ, củi, cần được nuôi dưỡng.

c) Những rừng bị tàn phá vì lửa, hoặc do nguyên nhân khác, hiện đang mọc lại.

Điều 4: - Sẽ liệt vào loại rừng mở cho khai thác, những khu rừng có điều kiện cung cấp gỗ, củi, khai thác tập trung theo chương trình điều chế hay khai thác theo lối phân tán và không thuộc phạm vi quy định là rừng bảo vệ hay rừng đóng nói trên.

Điều 5: - Cách thức tiến hành phân loại quy định rừng. Việc phân loại quy định rừng, sẽ dựa trên cơ sở nhân dân bình nghị.

Để giúp Ủy ban Hành chính lãnh đạo nhân dân thực hiện công tác này, tại các xã có rừng cần phân loại, sẽ thành lập một ban quy định rừng, gồm có đại biểu chính quyền xã có rừng, đại biểu Nông hội xã, và đại biểu nhân dân các thôn, xóm có rừng quy định, do Nông hội đề nghị.

Ban quy định rừng có nhiệm vụ: tổ chức nhân dân học tập, xem xét rừng, lãnh đạo nhân dân bình nghị vị trí giới hạn rừng quy định, thu thập tài liệu ý kiến về các vấn đề tranh chấp giữa cá nhân hoặc thôn xóm nếu có, lập dự án quy định dự thảo quy ước bảo vệ và làm mọi đề nghị cần thiết.

[...]