Kết luận thanh tra 622/KL-TTCP năm 2015 chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tại một số doanh nghiệp do Thanh tra Chính phủ ban hành

Số hiệu 622/KL-TTCP
Ngày ban hành 31/03/2015
Ngày có hiệu lực 31/03/2015
Loại văn bản Văn bản khác
Cơ quan ban hành Thanh tra Chính phủ
Người ký Trần Đức Lương
Lĩnh vực Bảo hiểm

THANH TRA CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 622/KL-TTCP

Hà Nội, ngày 31 tháng 03 năm 2015

 

KẾT LUẬN THANH TRA

VỀ VIỆC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ TẠI MỘT SỐ DOANH NGHIỆP

Thực hiện Chương trình, kế hoạch thanh tra năm 2014 của Thanh tra Chính phủ, Đoàn thanh tra theo Quyết định số 2125/QĐ-TTCP ngày 11/9/2014 của Tng Thanh tra Chính phủ đã thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) tại một s doanh nghiệp trên địa bàn 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Xét Báo cáo kết quả thanh tra ngày 29/01/2015 của Đoàn thanh tra, Tổng Thanh tra Chính phủ kết luận như sau:

I. KHÁI QUÁT CHUNG

Thực hiện ý kiến kết luận của đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thông báo số 417-TB/VPCP ngày 11/11/2013 của Văn phòng Chính phủ, Tổng Thanh tra Chính phủ đã thành lập Đoàn thanh tra liên ngành (Quyết định số 2125/QĐ-TTCP ngày 11/9/2014) tiến hành thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tại 70 doanh nghiệp trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Đắk Lắk, Đồng Nai, Bình Dương (sau đây gọi tắt là 12 tỉnh). Thời kỳ thanh tra: Từ ngày 01/01/2013 đến ngày 31/7/2014.

Trong tổng số 70 đơn vị được thanh tra tại 12 tỉnh, có 63 doanh nghiệp trong nước, 7 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hoạt động sản xuất, kinh doanh chủ yếu thuộc các nhóm ngành, nghề: Sản xuất và chế biến nông sản, sản xuất xi măng, gia công cơ khí, xây dựng hạ tầng và công trình dân dụng, may mặc, thủy sản, nông nghiệp. Tổng số nợ BHXH, BHYT (kể cả lãi chậm đóng) của 70 doanh nghiệp đến 31/7/2014 là 373.161,2 triệu đồng, số tháng nợ trung bình là 26 tháng. Đoàn thanh tra đã tiến hành thanh tra trực tiếp tại 68/70 doanh nghiệp trên địa bàn 12 tỉnh (02 doanh nghiệp đã ngừng hoạt động[1] nên không tiến hành thanh tra trực tiếp).

II. KẾT QUẢ THANH TRA

Các doanh nghiệp được thanh tra nhìn chung đã đăng ký tham gia đóng BHXH, BHYT cho người lao động theo quy định tại Điều 2 Luật BHXH năm 2006, Điều 12 Luật BHYT năm 2008; lập các biểu mẫu tăng, giảm BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) hàng tháng theo biểu mẫu quy định tại Quyết định 1111/QĐ-BHXH ngày 25/10/2011 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

1. Việc chấp hành pháp luật về thời gian đóng BHXH, BHYT

Qua thanh tra cho thấy: Trong thời kỳ thanh tra từ 01/01/2013 đến 31/7/2014, tất cả 68 doanh nghiệp đều chậm đóng BHXH, BHYT (đóng không đúng thời gian quy định) với thời gian chậm đóng kéo dài từ 4 tháng đến 67 tháng (trung bình 26 tháng), vi phạm Khoản 2 Điều 134 Luật BHXH năm 2006, khoản 1 Điều 11 Luật BHYT năm 2008, việc chậm đóng BHXH vi phạm Điểm a Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (viết tắt là Nghị định số 95/2013/NĐ-CP). Tổng số nợ BHXH, BHYT (kể cả lãi chậm đóng) của 68 doanh nghiệp đến 31/7/2014 là 359.413,5 triệu đồng.

Tính đến ngày 15/01/2015, các doanh nghiệp đã nộp số tiền nợ BHXH, BHTN, BHYT vào tài khoản của BHXH địa phương được 104.529,7 triệu đồng, đạt 29,08% tổng số nợ đến thời điểm 31/7/2014, trong đó: 9 doanh nghiệp đã nộp 100% số tiền nợ, 48 doanh nghiệp đã nộp một phần, 11 doanh nghiệp chưa nộp (chi tiết theo Biểu số 1).

2. Việc chấp hành pháp luật về mức đóng, phương thức đóng, số người thuộc diện tham gia BHXH, BHYT

2.1. Về mức đóng

Có 5 doanh nghiệp đóng BHXH, BHYT với mức tiền lương, tiền công của 326 lao động thấp hơn mức quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 103/2012/NĐ-CP ngày 04/12/2012, Nghị định số 182/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, vi phạm Khoản 3 Điều 134 Luật BHXH năm 2006 và Khoản 1 Điều 11 Luật BHYT năm 2008, việc đóng BHXH không đúng mức vi phạm Điểm b Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP; số tiền truy đóng BHXH, BHTN, BHYT 05 doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan BHXH địa phương là 193,4 triệu đồng. Tính đến 15/01/2015, có 02 doanh nghiệp đã nộp số tiền là 65,4 triệu, đạt 33,8% (chi tiết theo Biểu số 2).

2.2. Về phương thức đóng

Qua thanh tra cho thấy: Có 24 doanh nghiệp đã trích từ tiền lương, tiền công của người lao động để đóng BHXH, BHYT nhưng chưa đóng hết cho cơ quan BHXH số tiền lả 32.624,2 triệu đồng, chiếm dụng sử dụng vào mục đích khác (để mua nguyên liệu, vật tư, trả lương cho người lao động...) vi phạm Khoản 2 Điều 43 Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, Khoản 1 Điều 136 Luật BHXH năm 2006, Khoản 3 Điều 11 Luật BHYT năm 2008.

Đến ngày 15/01/2015 có 21/24 doanh nghiệp đã nộp về cơ quan BHXH số tiền là 18.559,5 triệu đồng, đạt 56,88% (trọng đó có 12 doanh nghiệp đã nộp hết, 9 doanh nghiệp đã nộp một phần, 3 doanh nghiệp chưa nộp[2]) (chi tiết theo Biểu số 3).

2.3. Về số người thuộc diện tham gia BHXH, BHYT

Qua thanh tra cho thấy:

- Trong tổng số 68 doanh nghiệp được thanh tra có 21 doanh nghiệp đóng không đủ số người (2.063 người) thuộc diện tham gia BHXH, BHYT (dưới các hình thức: Trốn đóng, đóng thiếu thời gian của người lao động...), vi phạm Khoản 4 Điều 134 Luật BHXH năm 2006 và Khoản 1 Điều 11 Luật BHYT năm 2008, việc đóng BHXH không đủ số người thuộc diện tham gia vi phạm Điểm c Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP. Số tiền truy đóng BHXH, BHYT, BHTN các doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan BHXH địa phương là 16.581,86 triệu đồng. Đến ngày 15/01/2015 có 18/21 doanh nghiệp đã nộp hết số tiền truy thu cho cơ quan BHXH là 1.150,1 triệu đồng, đạt 6,9% (còn 03 doanh nghiệp chưa nộp số tiền truy thu[3]) (chi tiết theo Biểu số 4).

- Có 251 người lao động của 12 doanh nghiệp không có tên trong bảng lương (không làm việc tại doanh nghiệp) nhưng có tên trong danh sách tham gia đóng BHXH, BHTN, BHYT (chi tiết theo Biểu số 5). Đây là việc doanh nghiệp đóng không đúng đối tượng tham gia BHXH, BHYT quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 2 Luật BHXH năm 2006 và Khoản 1 Điều 12 Luật BHYT năm 2008. Trong quá trình thanh tra, Đoàn thanh tra đã yêu cầu doanh nghiệp ngừng đóng BHXH, BHTN, BHYT cho 251 người lao động này và thực hiện báo giảm với cơ quan BHXH địa phương.

3. Về giải quyết chế độ BHXH, BHYT

Nhìn chung, các doanh nghiệp được thanh tra đã thực hiện tương đối nghiêm túc việc giải quyết chế độ BHXH, BHYT cho người lao động, đăng ký và quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT theo quy định. Một số doanh nghiệp đã ứng tiền (từ 2% quỹ tiền lương hàng tháng được giữ lại hoặc tiền của doanh nghiệp) để chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Do các doanh nghiệp còn nợ tiền BHXH, BHYT nên chưa được cơ quan BHXH quyết toán khoản chi này và còn có 35 doanh nghiệp chưa xác nhận được sổ và trả sổ BHXH cho 8.805 người lao động đã nghỉ việc hoặc chuyển làm việc tại đơn vị khác, vi phạm khoản 2 Điều 135 Luật BHXH năm 2006 (chi tiết theo Biểu số 6).

4. Một số nội dung liên quan phát hiện qua thanh tra

4.1. Về xây dựng thang lương, bảng lương làm cơ sở trả lương và đóng BHXH, BHYT cho người lao động

Qua thanh tra cho thấy: Hầu hết các doanh nghiệp chưa thực hiện việc xây dựng thang lương, bảng lương và định mức lao động làm cơ sở trả lương và đóng BHXH, BHYT cho người lao động theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 49/2013/NĐ-CP mà đang vận dụng thang lương, bảng lương theo Nghị định số 205/2004/NĐ-CP của Chính phủ hoặc thang lương, bảng lương cũ của doanh nghiệp (trước đây đã đăng ký và được cơ quan lao động chấp thuận).

Đến nay, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chưa có hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp về việc xây dựng thang lương, bảng lương, phụ cấp lương tại Điểm đ Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 49/2013/NĐ-CP.

[...]