Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Kế hoạch 873/KH-UBND năm 2021 về chăm sóc và nâng cao sức khỏe người lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, giai đoạn 2021-2030

Số hiệu 873/KH-UBND
Ngày ban hành 10/12/2021
Ngày có hiệu lực 10/12/2021
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bắc Ninh
Người ký Vương Quốc Tuấn
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Thể thao - Y tế

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC NINH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 873/KH-UBND

Bắc Ninh, ngày 10 tháng 12 năm 2021

 

KẾ HOẠCH

CHĂM SÓC VÀ NÂNG CAO SỨC KHỎE NGƯỜI LAO ĐỘNG, PHÒNG CHỐNG BỆNH NGHỀ NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH, GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Căn cứ Quyết định số 659/QĐ-TTg ngày 20/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chăm sóc và Nâng cao sức khỏe người lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp giai đoạn 2020 - 2030;

Căn cứ Quyết định số 3431/QĐ-BYT ngày 14/7/2021 của Bộ Y tế về việc phê duyệt Kế hoạch hành động triển khai Quyết định số 659/QĐ-TTg ngày 20/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chăm sóc và nâng cao sức khỏe người lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp giai đoạn 2020-2030;

Căn cứ Chương trình hành động số 46-CTr/TU ngày 26/01/2018 của Tỉnh ủy Bắc Ninh về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới;

Căn cứ Kế hoạch số 200/KH-UBND ngày 04/06/2018 của UBND tỉnh về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nghị quyết số 139/NQ-CP của Chính phủ và Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

Phần I

THÔNG TIN CƠ BẢN

I. THÔNG TIN CHUNG

1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

Bắc Ninh có phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây và Tây Nam giáp Thủ đô Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Đông giáp tỉnh Hải Dương. Đây là tỉnh có tổng diện tích tự nhiên nhỏ nhất cả nước 822,7km2. Là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có các đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các trung tâm kinh tế, thương mại và văn hóa của miền Bắc.

2. Dân số

Theo niên giám thống kê năm 2021, dân số trung bình của tỉnh Bắc Ninh là 1.462.945 triệu người; mật độ dân số là 1.778 người/km2 gấp hơn 5 lần mật độ dân số trung bình cả nước và là địa phương có mật độ dân số cao thứ 3 cả nước chỉ thấp hơn mật độ dân số của Hà Nội, TP Hồ Chí Minh.

3. Tình hình kinh tế, xã hội

- Sau gần 25 năm tái lập, từ một tỉnh nông nghiệp thuần túy, đến nay Bắc Ninh đã cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, với nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội đứng trong tốp đầu cả nước. Tuy bị ảnh hưởng do dịch bệnh COVID-19, song kinh tế Bắc Ninh vẫn tăng trưởng tốt, vượt kế hoạch đề ra, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2021 (giá SS năm 2010) ước tăng 6,9%, so với năm 2020 (đứng thứ 7 vùng đồng bằng sông Hồng, đứng thứ 13 cả nước).

- Ngoài ra, những yếu tố thuận lợi về địa lý, những nỗ lực của tỉnh trong việc tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tạo nhiều cơ chế hỗ trợ đặc thù đã giúp Bắc Ninh trở thành điểm đến của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong năm 2021, tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập mới cho 2.221 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký 25.677 tỷ đồng. Lũy kế đến nay, đã thu hút 1.489 dự án đầu tư trong nước với số vốn đăng ký 225.311 tỷ đồng; 1.714 dự án FDI còn hiệu lực với số vốn đăng ký đạt 21.166,9 triệu USD. Trong đó, tiêu biểu phải kể đến các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực điện tử và phụ trợ điện tử hàng đầu thế giới như: Samsung, Canon, Foxconn, Hanwa Techwin, Fushan Technology …

- Bên cạnh các khu công nghiệp tập trung, tỉnh còn quy hoạch 32 cụm công nghiệp với tổng diện tích 864,89 ha; trong đó, có 26 cụm đã đi vào hoạt động.

- Là địa phương có diện tích nhỏ nhất, nhưng Bắc Ninh lại là một trong những tỉnh có nhiều làng nghề nhất cả nước. Hiện nay, tỉnh Bắc Ninh có 62 làng nghề, trong đó có 30 làng nghề thủ công truyền thống, nổi bật như: làng nghề Gỗ Đồng Kỵ, gốm Phù Lãng, đúc đồng Đại Bái, chạm khắc gỗ Phù Khê… Toàn tỉnh cũng có 12 nghề truyền thống, sản phẩm mang tính đặc sắc, đang phát triển tốt như: nghề làm bánh phu thê ở Đình Bảng, bánh tẻ làng Chờ, bánh khúc làng Diềm, bánh khoai Thị Cầu…;

- Các làng nghề có khoảng 28.342 hộ tham gia, chiếm 62,74% số hộ trong làng nghề và gần 74 nghìn lao động làm nghề, tạo ra sản phẩm hàng hóa đạt khoảng 12,2 nghìn tỷ đồng/năm, thu nhập bình quân người dân ở nhiều làng nghề khoảng hơn 8 triệu đồng/người/tháng. Hoạt động làng nghề góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn và đóng góp đáng kể trong tổng sản phẩm của tỉnh;

- Hiện nay trên địa bàn tỉnh có hơn 12.000 Doanh nghiệp(DN) với khoảng 450.000 lao động, trong đó hơn 1.120 DN trong khu công nghiệp tập trung và 26 cụm công nghiệp. Các cơ sở lao động có từ 10 lao động trở lên khoảng 1800 doanh nghiệp (số doanh nghiệp này đã được phân cấp quản lý đối với tuyến tỉnh, huyện, xã), trong đó gần 200 doanh nghiệp lớn (tên 200 lao động). Các doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, số lượng lao động không ổn định, có một số cơ sở còn thường xuyên thay đổi địa điểm kinh doanh …Trong giai đoạn 2021-2030, Bắc Ninh tiếp tục phát triển mới các KCN và 06 cụm công nghiệp mới trên địa bàn với tổng số lao động tăng thêm khoảng 200.000 lao động. Đây là một thách thức không nhỏ đối với công tác chăm sóc sức khỏe, phòng chống bệnh nghề nghiệp cho người lao động trên địa bàn.

Phần II

KẾT QUẢ TRIỂN KHAI CÔNG TÁC CHĂM SÓC SỨC KHỎE VÀ NÂNG CAO SỨC KHỎE NGƯỜI LAO ĐỘNG, PHÒNG CHỐNG BỆNH NGHỀ NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN 2012-2020

Trong những năm vừa qua, hệ thống y tế tại địa phương đã không ngừng củng cố, phát triển, đáp ứng cơ bản công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, người lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Tuy nhiên mạng lưới tổ chức triển khai thực hiện công tác vệ sinh lao động từ tuyến tỉnh đến xã, phường và y tế tại các cơ sở lao động chưa ổn định và chưa liên kết tốt trong thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp. Nhân lực làm công tác vệ sinh lao động tại tuyến tỉnh, huyện, xã còn mỏng và thiếu, thường xuyên biến động do thay đổi vị trí việc làm, đi học… trình độ chuyên môn còn chưa đồng đều. Các cơ sở lao động còn chưa bố trí đầy đủ cán bộ làm công tác y tế hoặc cán bộ y tế không đúng trình độ chuyên môn, chưa được đào tạo về y tế lao động. Theo báo cáo năm 2020 hiện mới chỉ có 151 cơ sở lao động báo cáo đã có bộ phận y tế. Đây chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, còn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt tại doanh nghiệp nhỏ thì hầu như chưa bố trí được bộ phận y tế theo quy định.

- Việc thực hiện các quy định về chăm sóc sức khỏe, phòng chống bệnh nghề nghiệp tại các doanh nghiệp lớn (trên 200 lao động) tương đối tốt. Theo thống kê, báo cáo các năm từ 2018 - 2020, có khoảng 70% các doanh nghiệp lớn đã thực hiện báo cáo y tế lao động, khám sức khỏe định kỳ, quan trắc môi trường lao động...Tuy nhiên, tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt tại các doanh nghiệp nhỏ hầu như không thực hiện báo cáo công tác y tế lao động, quan trắc môi trường lao động, khám sức khỏe định kỳ...Chỉ có 2% doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện báo cáo y tế lao động.

- Theo báo cáo y tế lao động năm 2020, trong tổng số 362 doanh nghiệp báo cáo YTLĐ, có 128 doanh nghiệp vừa (50-200 lao động) thực hiện báo cáo (23/128 doanh nghiệp có cán bộ y tế, 77/128 thực hiện khám sức khỏe định kỳ, 91/128 thực hiện QTMTLĐ), có 99 doanh nghiệp nhỏ (3/99 doanh nghiệp có cán bộ y tế, 35/99 doanh nghiệp thực hiện QTMTLĐ). Các doanh nghiệp không báo cáo công tác y tế lao động cơ sở hầu như chưa triển khai các hoạt động về chăm sóc sức khỏe người lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp.

- Việc kiểm tra, giám sát công tác VSLĐ tại các doanh nghiệp còn chưa được diễn ra thường xuyên và đầy đủ tại tất cả các doanh nghiệp. Hàng năm, các đơn vị trong ngành y tế chủ động thực hiện và phối hợp kiểm tra, giám sát công tác VSLĐ cho gần 200 doanh nghiệp (tương đương 10% số doanh nghiệp phân cấp quản lý và 1,8% tổng số doanh nghiệp trên địa bàn).

- Công tác truyền thông về VSLĐ, PC BNN chủ yếu thực hiện trong tháng hành động về ATVSLĐ và lồng ghép trong các đợt giám sát, hướng dẫn tại các doanh nghiệp. Chưa bố trí kinh phí để thực hiện truyền thông định kỳ về công tác này. Người lao động tại các doanh nghiệp nhỏ, làng nghề được tiếp cận rất hạn chế các thông tin về yếu tố nguy hiểm, có hại và bệnh nghề nghiệp. Hoạt động truyền thông còn chưa đa dạng về hình thức, nội dung chủ yếu là các tin bài truyền thông trên cổng thông tin điện tử của ngành y tế và các ngành liên quan.

- Năng lực QTMTLĐ tại các cơ sở QTMTLĐ trên địa bàn còn nhiều hạn chế, chủ yếu thực hiện các phép đo nhanh, chưa triển khai được đánh giá, phân tích các hơi khí độc, hợp chất hữu cơ, kim loại nặng ... trong môi trường lao động. Các trang thiết bị phục vụ giám sát nhanh môi trường lao động tại tuyến huyện đều đã cũ, hỏng, không sử dụng được. Cả tỉnh, chỉ có Trung tâm KSBT đủ năng lực thực hiện khám phát hiện bệnh nghề nghiệp, tuy nhiên do thiếu nhân lực, cơ sở vật chất còn chật hẹp nên chưa triển khai được đầy đủ các các xét nghiệm phục vụ khám phát hiện bệnh nghề nghiệp,chưa triển khai điều trị bệnh nghề nghiệp. Các cơ sở QTMTLĐ, khám sức khỏe định kỳ, khám phát hiện BNN khi triển khai dịch vụ tại các DN trên địa bàn chưa chủ động trao đổi, cung cấp thông tin để thực hiện phối hợp, quản lý;

[...]