Kế hoạch 8016/KH-UBND năm 2023 thực hiện Chương trình “Hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn giai đoạn 2022-2030" trên địa bàn tỉnh Bến Tre

Số hiệu 8016/KH-UBND
Ngày ban hành 27/12/2023
Ngày có hiệu lực 27/12/2023
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bến Tre
Người ký Nguyễn Thị Bé Mười
Lĩnh vực Giáo dục

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 8016/KH-UBND

Bến Tre, ngày 27 tháng 12 năm 2023

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH “HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC MẦM NON VÙNG KHÓ KHĂN GIAI ĐOẠN 2022-2030” TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE

Căn cứ Quyết định số 1609/QĐ-TTg ngày 26 tháng 12 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành phê duyệt Chương trình “Hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn giai đoạn 2022-2030”; Quyết định 353/QĐ-TTg ngày 15 tháng 3 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021-2025; Quyết định 589/QĐ-TTg ngày 20 tháng 4 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc công nhận xã đảo thuộc tỉnh Bến Tre;

Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng Kế hoạch thực hiện Chương trình “Hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non (GDMN) vùng khó khăn giai đoạn 2022-2030” trên địa bàn tỉnh Bến Tre như sau:

I. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC MẦM NON TẠI ĐỊA BÀN VÙNG KHÓ KHĂN CỦA TỈNH

1. Tổng quan chung về giáo dục mầm non (GDMN)

Toàn tỉnh hiện có 179 trường mầm non, mẫu giáo (gọi chung là trường mầm non) và 68 nhóm trẻ độc lập tư thục với 1.549 nhóm trẻ, lớp mẫu giáo trong các cơ sở GDMN. Tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi nhà trẻ 17,55%; mẫu giáo 86,67%. Với quy mô hiện tại, các trường mầm non đảm bảo đủ 1 phòng học/1 lớp.

Tất cả trường mầm non và nhóm, lớp độc lập đều thực hiện Chương trình giáo dục mầm non 2 buổi/ngày, trong đó có 83,51% trẻ đến trường mầm non được tổ chức bán trú. Định mức giáo viên/ lớp bình quân chung 1.79.

2. Giáo dục mầm non vùng khó khăn của tỉnh

Căn cứ Quyết định 353/QĐ-TTg ngày 15 tháng 3 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021-2025 và Quyết định số 589/QĐ-TTg ngày 20 tháng 4 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc công nhận xã đảo thuộc tỉnh Bến Tre, tỉnh có 21 xã thuộc vùng bãi ngang khó khăn và 01 xã đảo. Ngày 13 tháng 02 năm 2023, xã An Thủy thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre (xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo theo Quyết định 353/QĐ-TTg) đã trở thành thị trấn theo Nghị quyết 724/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

a) Quy mô trường, lớp, trẻ em thuộc vùng khó khăn của tỉnh

Tại mỗi xã vùng khó khăn, xã đảo đều có trường mầm non, mẫu giáo (21 trường), hầu hết đều là trường mẫu giáo. Ngoài ra còn có 03 nhóm trẻ, lớp mẫu giáo, lớp mầm non độc lập tư thục. Trường có số lớp nhiều nhất là 10 lớp (trường mầm non Bảo Thuận, mầm non Tân Xuân - Ba Tri); trường có số lớp ít nhất là 03 lớp (mẫu giáo Hưng Phong - Giồng Trôm); trường có số điểm lẻ nhiều nhất là 04 điểm (trường mẫu giáo An Hòa Tây, An Ngãi Tây, mầm non Tân Xuân - Ba Tri). Tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ của các xã từ 2,1% - 23,5%; mẫu giáo từ 58,9% - 96,6%. Bình quân chung tỷ lệ trẻ em đến trường, lớp mầm non vùng khó khăn của tỉnh là 5,34% nhà trẻ và 72,24% mẫu giáo. Có 13 xã không có nhóm trẻ trong trường, có 9 xã tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ là 0,0%, không có trẻ em dân tộc thiểu số tại các vùng khó khăn này (đính kèm Phụ lục I).

b) Chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục

Có 100% trẻ em đến trường mầm non được học 2 buổi/ngày theo Chương trình GDMN của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong đó có 2.086/4.595 trẻ em được tổ chức bán trú (tỷ lệ 45,4%), còn 07/21 trường chưa tổ chức bán trú.

c) Đội ngũ giáo viên

Số giáo viên mầm non hiện có của 21 xã vùng khó khăn của tỉnh là 225 giáo viên, bình quân 1.46 giáo viên/lớp. Có 97,78% giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo (trong đó trên chuẩn là 68,89%), còn 2,22% giáo viên chưa đạt chuẩn đào tạo (5 giáo viên tại các xã Tân Hưng, Tam Hiệp, Phú Long và An Điền).

d) Cơ sở vật chất

Hiện trường mầm non ở xã vùng khó khăn của tỉnh đủ 01 phòng học/lớp (157 phòng/157 lớp), trong đó phòng học kiên cố đạt 80,5%. Có 48/61 sân chơi (kể cả điểm lẻ) đủ đồ chơi ngoài trời theo quy định, tỷ lệ 78,69%. Tỷ lệ phòng học có đủ bộ thiết bị, đồ dùng, đồ chơi tối thiểu là 73,38%. Hầu hết các trường chưa đủ hệ thống phòng chức năng và khối phòng hành chính theo quy định1.

* Đánh giá chung:

STT

Nội dung

Toàn tỉnh

Vùng khó khăn (bình quân chung)

Mục tiêu theo QĐ 1609/2022/QĐ-TTg

So sánh mức độ đáp ứng của vùng KK với mục tiêu (đến năm 2025)

2025

2030

1

Huy động trẻ em đến trường

 

 

 

 

 

- Nhà trẻ

17,55 %

5,34 %

20 %

25 %

- 14,66%

- Mẫu giáo

86,67 %

72,24%

90 %

95 %

- 17,76%

2

Chất lượng 

 

 

 

 

 

- Thực hiện Chương trình GDMN 2 buổi/ngày

100 %

100 %

100 %

100 %

Đạt

- Bán trú

83,51 %

45,4 %

-

-

Chưa đạt

3

Đội ngũ 

 

 

 

 

 

- Định mức GV/lớp

1.79

1.46

 

 

 

+ Nhà trẻ

 

 

2.5 /nhóm

2.5 /nhóm

Chưa đạt

+ Mẫu giáo

 

 

2.2 /lớp

2.2 /lớp

 

- Tỷ lệ đạt chuẩn

95,17%

97,78 %

100 %

100 %

 

Trong đó tỷ lệ trên chuẩn

68,57%

68,89 %

 

 

 

4

Cơ sở vật chất

 

 

 

 

Thiếu phòng học để phát triển nhóm, lớp theo mục tiêu KH.

- Phòng học

1ph/ lớp

1ph/lớp

1ph/lớp

1ph/ lớp

 

 

 

 

 

- Sân chơi có đồ chơi

99,5%

78,69%

100%

100%

- 21,31%

- Thiết bị trong nhóm/lớp

80%

73,38%

100%

100%

- 26,62%

 

* Một số khó khăn, hạn chế:

- Tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi nhà trẻ vùng khó khăn thấp.

- Trong tổng số 21 trường, ngoài điểm chính còn có thêm 40 điểm lẻ, nhiều điểm cách xa trung tâm và chỉ có 01 lớp/điểm nên không đầu tư được phòng chức năng, khó khăn trong tổ chức bán trú.

- Giáo viên thiếu so với định mức theo quy định (hiện tại chỉ đạt bình quân 1.46 giáo viên/lớp, có đơn vị 1.1 giáo viên/lớp).

- Công tác xã hội hóa giáo dục huy động các nguồn lực phát triển GDMN tại các địa phương này khó thực hiện nên có hạn chế trong phát triển hệ thống trường lớp ngoài công lập.

* Nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế:

- Mạng lưới trường lớp phân tán, biên chế giáo viên mầm non chưa đủ định mức quy định theo số lớp hiện có.

[...]