Kế hoạch 485/KH-UBND năm 2019 về phát triển ngành nghề nông thôn giai đoạn 2019-2023 tỉnh Quảng Bình

Số hiệu 485/KH-UBND
Ngày ban hành 12/04/2019
Ngày có hiệu lực 12/04/2019
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Quảng Bình
Người ký Lê Minh Ngân
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 485 /KH-UBND

Quảng Bình, ngày 12 tháng 4 năm 2019

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHỀ NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN 2019 - 2023 TỈNH QUẢNG BÌNH

PHẦN 1

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHỀ NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIAI ĐOẠN 2014 - 2018

I. Kết quả thực hiện phát triển các ngành sản xuất

Tổng giá trị sản xuất ngành nghề nông thôn đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh (phân theo 7 nhóm ngành của Nghị định 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn) đạt 3.999.300 triệu đồng, tăng 913.750 triệu đồng so với năm 2014, so với mục tiêu Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2020 đạt 88,4%, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2014 đến 2018 đạt 6,69%. Tổng lao động thường xuyên và thời vụ hoạt động trong ngành nghề nông thôn 37.957 lao động, so với mục tiêu Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2020 đạt 56,5%. Có 22.625 cơ sở hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn, so với mục tiêu Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2020 đạt 67,2%, trong đó: 154 doanh nghiệp; 41 hợp tác xã, tổ hợp tác và 22.430 hộ kinh doanh cá thể. Cụ thể theo các nhóm ngành hàng như sau:

- Chế biến bảo quản nông lâm thủy sản: Giá trị sản xuất 991.900 triệu đồng, có 4.676 cơ sở với 6.588 lao động.

- Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ: Giá trị sản xuất 197.200 triệu đồng, có 1.946 cơ sở với 3.171 lao động.

- Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn: Giá trị sản xuất 110.000 triệu đồng, có 384 cơ sở với 1.140 lao động.

- Sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, cơ khí nhỏ: Giá trị sản xuất 1.406.500 triệu đồng, có 10.748 cơ sở với 16.536 lao động.

- Gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh: Giá trị sản xuất 400 triệu đồng, có 8 cơ sở với 21 lao động.

- Sản xuất muối: Giá trị sản xuất 500 triệu đồng, có 400 cơ sở với 700 lao động.

- Các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn: Giá trị sản xuất 1.292.800 triệu đồng, có 4.463 cơ sở với 9.801 lao động.

II. Tình hình phát triển các làng nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận

Đến nay, toàn tỉnh 29 làng nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận. Nhìn chung các làng nghề, làng nghề truyền thống đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn, đặc biệt là lao động nhàn rỗi ở địa phương, nổi bật có các làng nghề: nón lá truyền thống Hạ Thôn, xã Quảng Tân thu hút 850 hộ với 2.100 lao động, tạo thu nhập ổn định bình quân 2,2 triệu đồng/người/tháng; Làng nghề nón lá truyền thống Quy Hậu, xã Liên Thủy thu hút 1.600 hộ với hơn 1.600 lao động; Làng nghề chế biến bún bánh mè xát Tân An, xã Quảng Thanh thu hút 232 hộ với 460 lao động.

Bên cạnh đó, một số làng nghề đang gặp nhiều khó khăn hoạt động sản xuất ở dạng duy trì, nguyên nhân là do sản phẩm không còn phù hợp với thị trường như: Làng nghề đan lát Xuân Bồ, xã Xuân Thủy, làng nghề rèn đúc Nhân Hòa, xã Quảng Hòa.

Các sản phẩm chính của làng nghề bao gồm: nón lá, nước mắm, rượu, bún bánh, mây tre, chổi đót, chiếu cói.... Thị trường tiêu thụ đa số là thị trường nội tỉnh và các địa phương khác như tỉnh Thừa Thiên Huế, Thanh Hóa, thành phố Đà Nẵng... Một số làng nghề nhập trực tiếp cho các doanh nghiệp đến thu mua tại xã. Công tác xử lý ô nhiễm môi trường được các cơ sở làng nghề quan tâm, hiện nay trên địa bàn tỉnh không có làng nghề nào nằm trong danh mục các làng nghề ô nhiễm đã được đưa vào Đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

Lao động tại làng nghề, làng nghề truyền thống chủ yếu là lao động thủ công chưa qua đào tạo. Đa số sử dụng lao động nhàn rỗi có trình độ thấp tại địa phương, mặc dù hàng năm đã có chính sách đào tạo nghề gắn với phát triển làng nghề, một số làng nghề đã được đào tạo lao động có trình độ sơ cấp nhưng còn ít dẫn đến thu nhập không cao, do đó người lao động có xu hướng tìm việc làm khác phù hợp hơn.

Công tác xây dựng thương hiệu, đăng ký nhãn hiệu bước đầu đã được một số cơ sở làng nghề quan tâm, chú trọng thực hiện. Một số nhãn hiệu đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể: HTX SXKD rượu làng nghề Võ Xá, xã Võ Ninh, Hợp tác xã bánh mè xát Tân An; Hội nước mắm Nhân Trạch. Năm 2018 một số sản phẩm của cơ sở làng nghề đã được bình chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu như: sản phẩm mây xiên đan mắt cáo (HTX mây tre đan Quảng Tiến); sản phẩm Khoai deo Hải Ninh (HTX Sản xuất và Chế biến khoai deo Hải Ninh); sản phẩm bánh mè xát (HTX làng nghề bánh mè xát Tân An).

Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề được thực hiện thông qua hoạt động hỗ trợ đào tạo nghề, truyền nghề, nâng cao tay nghề và phát triển nghề theo hình thức liên kết giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp (Nđào tạo nghề may công nghiệp); cơ sở tự đào tạo nghề, truyền nghề (Các lớp nón lá, chổi đót, mây xiên, mộc mỹ nghệ, cơ khí, chế biến thủy sản, mây, tre đan); mời chuyên gia đào tạo nghề, truyền nghề, nâng cao tay nghề và phát triển nghề mới (Các lớp mây xiên xuất khẩu)… Bên cạnh đó, một số địa phương còn khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia hoạt động sản xuất nhằm bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hóa ở địa phương như Hội Người cao tuổi, Hội Phụ nữ...

III. Kết quả và kinh phí thực hiện hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn, hỗ trợ các làng nghề, làng nghề truyền thống.

Tổng kinh phí hỗ trợ giai đoạn 2014 - 2018: 9.049 triệu đồng, trong đó: ngân sách tỉnh: 5.459 triệu đồng; ngân sách huyện: 3.590 triệu đồng.

Các nội dung hỗ trợ: Đầu tư trang thiết bị máy móc, xây dựng nhà xưởng (5.060 triệu đồng), hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn (3.864 triệu đồng), đầu tư cơ sở hạ tầng làng nghề (260 triệu đồng), xúc tiến thương mại (45 triệu đồng).

(Chi tiết theo biểu kèm theo)

IV. Đánh giá chung

1. Kết quả đạt được

Lĩnh vực ngành nghề nông thôn, làng nghề đã có sự phát triển, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo ở nông thôn. Các cơ sở ngành nghề nông thôn đã tạo ra sản phẩm hàng hoá ngày càng phong phú, từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu thụ của nhân dân trên địa bàn, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Cùng với việc tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có ở trong tỉnh, một số cơ sở đã mạnh dạn đầu tư máy móc, áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Một số ngành có nguy cơ ô nhiễm môi trường như chế biến nước mắm, sản xuất bún, bánh ướt... các cơ sở đã chú trọng việc xử lý chất thải.

Đa số các làng nghề trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho lao động nông thôn. Công tác xây dựng thương hiệu, đăng ký nhãn hiệu đã được các cơ sở làng nghề quan tâm. Hoạt động truyền nghề, nâng cao tay nghề và phát triển nghề ngày càng được liên kết chặt chẽ giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp.

[...]