Kế hoạch 3069/KH-UBND năm 2021 về phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Kon Tum năm 2022

Số hiệu 3069/KH-UBND
Ngày ban hành 27/08/2021
Ngày có hiệu lực 27/08/2021
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Kon Tum
Người ký Nguyễn Hữu Tháp
Lĩnh vực Doanh nghiệp

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH KON TUM
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3069/KH-UBND

Kon Tum, ngày 27 tháng 8 năm 2021

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KON TUM NĂM 2022

Thực hiện Văn bản số 5035/BKHĐT-HTX ngày 02 tháng 8 năm 2021 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2022; trên cơ sở tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 06 tháng đầu năm và ước thực hiện cả năm 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum báo cáo đánh giá và xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể năm 2022, cụ thể như sau:

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ NĂM 2021

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ NĂM 2021

1. Đánh giá dựa trên các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

a) Về số lượng, doanh thu và thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác (HTX, LH HTX, THT)

- Tổ hợp tác

+ Tổng số THT trên địa bàn tỉnh hiện là 205 THT, đạt 95,3% so với kế hoạch năm 2021 (215 THT), trong đó có 145 THT có đăng ký hoạt động với chính quyền xã/phường/thị trấn.

+ Doanh thu trung bình khoảng 187 triệu đồng/THT/năm đạt 98,9% kế hoạch, lợi nhuận trung bình 39 triệu đồng/THT/năm đạt 95% kế hoạch, thu nhập bình quân của thành viên 20 triệu đồng/người/năm.

+ Hoạt động của THT chủ yếu giúp đỡ nhau về vốn, nhân lực trong sản xuất, kinh doanh; tuyên truyền, phổ biến kinh nghiệm sản xuất góp phần xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động và hộ gia đình. Tuy nhiên, còn nhiều tổ hợp tác chưa huy động được vốn góp chung; hoạt động theo thời vụ nên thiếu tính bền vững, quy mô nhỏ lẻ, chưa ký kết hợp đồng hợp tác và đăng ký hoạt động với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Các THT trong nông nghiệp nông thôn còn gặp phải những khó khăn như: Sản xuất kinh doanh trong điều kiện của biến đổi khí hậu; phải cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác như doanh nghiệp, hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường, nhất là các cạnh tranh mới về khoa học công nghệ, về giá thành và chất lượng sản phẩm nhưng chưa được chia sẻ thông tin kịp thời.

- Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã

+ Trên địa bàn tỉnh Kon Tum hiện có 190 HTX và 01 LH HTX, đạt 120% kế hoạch (158 HTX, 01 LH HTX), trong đó có 184 HTX đang hoạt động, 01 LH HTX và 06 HTX ngưng hoạt động. Trong 6 tháng đầu năm 2021 có 26 HTX thành lập mới, 06 HTX giải thể(1).

+ Tổng nguồn vốn hoạt động của HTX trên tất cả các lĩnh vực đạt 273.000 triệu đồng; bình quân nguồn vốn hoạt động của 01 HTX là 1.700 triệu đồng. Ước doanh thu bình quân HTX năm đạt 1.500 triệu đồng/HTX/năm đạt 57,2% so với Kế hoạch, lợi nhuận bình quân khoảng 270 triệu đồng/HTX/năm đạt 80,8 % so với Kế hoạch.

b) Về thành viên, lao động của HTX, LH HTX, THT

- Các HTX, LHHTX trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 9.698 thành viên và người lao động, đạt 103,5% kế hoạch năm (9.538 thành viên).

- Tổng số thành viên của các THT là 2.150 thành viên, đạt 102,3% kế hoạch năm.

- Thu nhập bình quân của thành viên khoảng 40 triệu đồng/người/năm, thu nhập bình quân của lao động thường xuyên trong HTX 47 triệu đồng/người/năm.

c) Về trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác

- Tổng số cán bộ quản lý HTX, LH HTX hiện là 327 người đạt 87% kế hoạch năm, trong đó: Trình độ Cao đẳng trở lên là 98 người; Sơ cấp, trung cấp là 263 người.

- Cán bộ quản lý HTX, LH HTX chiếm 3,4% so với tổng số thành viên HTX, LH HTX trên địa bàn tỉnh.

2. Đánh giá theo lĩnh vực

a) Ngành nông, lâm nghiệp

Tổng số HTX, LH HTX đang hoạt động trong ngành nông, lâm nghiệp là 135 (134 HTX, 01 LH HTX). Doanh thu bình quân khoảng 1.100 triệu đồng/HTX/năm; lợi nhuận bình quân sau thuế khoảng 235 triệu đồng/HTX/năm; thu nhập bình quân của thành viên khoảng 35 triệu đồng/người/năm; thu nhập bình quân của lao động thường xuyên trong HTX khoảng 40 triệu đồng/người/năm; số lượng thành viên là 1.913 thành viên.

Trong điều kiện còn nhiều khó khăn nhưng các HTX nông nghiệp đã đạt được những kết quả quan trọng như:

- Hầu hết các HTX, LH HTX đã kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, bố trí người có trách nhiệm cao vào các vị trí chủ chốt ở các khâu công việc, tạo được sự chuyển biến cơ bản về quan hệ sở hữu, phương thức quản lý và phương thức phân phối, hạch toán tài chính theo các quy định hiện hành của Nhà nước. Các HTX, LH HTX chú trọng sử dụng phương thức khoán và hợp đồng dịch vụ trong các khâu để phát huy vai trò làm chủ của thành viên, tăng năng suất và sinh lợi trực tiếp; tiếp tục xử lý những tồn đọng về nguồn vốn, tài sản và vốn góp của thành viên; làm rõ tư cách thành viên. Nhiều HTX được tăng cường về nguồn lực con người, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ, tiềm lực tài chính.

- Có trên 60% số HTX nông nghiệp đã có tích lũy vốn và thực hiện tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Các HTX này có tốc độ phát triển ổn định, bền vững, từng bước thể hiện trên thực tế có nhiều mô hình HTX kiểu mới như: HTX Sáu Nhung, HTX Thần nông, HTX Hợp Thành, HTX Hải Tình, HTX Rạng Đông, HTX Tiến Đạt, HTX Lộc Phát, HTX rau, hoa và du lịch Thanh Niên, HTX công bằng Pô Kô…

[...]