Kế hoạch 2407/KH-UBND năm 2022 triển khai giải pháp phấn đấu đạt chỉ tiêu năng lượng và thúc đẩy công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển do tỉnh Ninh Thuận ban hành

Số hiệu 2407/KH-UBND
Ngày ban hành 03/06/2022
Ngày có hiệu lực 03/06/2022
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Ninh Thuận
Người ký Phan Tấn Cảnh
Lĩnh vực Thương mại

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH NINH THUẬN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 2407/KH-UBND

Ninh Thuận, ngày 03 tháng 6 năm 2022

 

KẾ HOẠCH

TRIỂN KHAI CÁC GIẢI PHÁP PHẤN ĐẤU ĐẠT CHỈ TIÊU NĂNG LƯỢNG VÀ THÚC ĐẨY CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO PHÁT TRIỂN

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh năm 2022 xây dựng trong bối cảnh khó khăn và thuận lợi đan xen, ảnh hưởng tác động nặng nề của đại dịch COVID-19. Trong nước, tình hình chính trị - xã hội và kinh tế vĩ mô ổn định, các chính sách hỗ trợ, kích cầu kinh tế của Chính phủ sẽ giúp đất nước sớm trở lại trạng thái bình thường và nền kinh tế mau chóng hồi phục. Đối với Tỉnh ta, những chủ trương, quyết sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội đã và đang triển khai sẽ tạo chuyển biến mới, động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững, cùng với việc tận dụng các cơ chế chính sách đặc thù hỗ trợ tỉnh của Chính phủ tại Nghị quyết 115/NQ-CP ngày 31/8/2018 và phát huy hiệu quả các công trình, dự án lớn mang tính động lực đã và đang đầu tư (đường cao tốc Bắc-Nam, Cảng biển tổng hợp Cà Ná, đường nối cao tốc Bắc - Nam đến Cảng biển tổng hợp Cà Ná, dự án Trung tâm điện lực LNG Cà Ná;...). Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất vẫn là diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19, nguồn lực đầu tư công hạn chế, hoạt động doanh nghiệp còn khó khăn; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) và các chính sách mới về giá điện gió, điện mặt trời chưa kịp thời ban hành, một số sản phẩm công nghiệp chế biến chủ lực bị giảm sâu trong năm 2021 do khó khăn về mở rộng quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ, đứt gãy chuỗi cung ứng, giá cước vận tải tăng, … sẽ là những khó khăn, thách thức tác động đến giá trị sản xuất công nghiệp và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng (GRDP) của tỉnh.

Năm 2022 Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng (GRDP) của tỉnh tăng từ 10-11%, trong đó công nghiệp tăng 16-17%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tính tăng 5,83% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 11,5%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,41%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,3%; riêng ngành khai khoáng giảm 14,91%. Một điểm lưu ý là trong năm nay, IIP toàn ngành thường tăng < 10% (các năm trước thường tăng > 10%) là do ngành công nghiệp chủ lực sản xuất và phân phối điện tăng thấp, năng lực sản xuất điện mới giảm mạnh. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 5 tháng đầu năm 2022 tăng so với cùng kỳ năm trước: tôm đông lạnh tăng 87%; thạch nha đam tăng 48,9%; bia đóng lon tăng 14,3%, nước yến tăng 56%, điện gió tăng 47,5%, thủy điện tăng 12,8%. Một số sản phẩm giảm: các loại đá lót lề đường giảm 52,9%; muối biển giảm 32,2%; hạt điều khô giảm 31,8%; tinh bột sắn giảm 31,8%, dự kiến trong tháng ngừng sản xuất vì hết nguyên liệu; sản xuất đường giảm 17,2%, hiện đã ngừng sản xuất do hết mía nguyên liệu; xi măng giảm 15,8%; điện mặt trời giảm 3,3%.

Mặc dù, công nghiệp chế biến có chiều hướng phục hồi tích cực khi thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 nhưng ngành công nghiệp chủ lực hiện nay là sản xuất điện đã có chiều hướng đạt trần công suất và tăng trưởng chậm lại, do ảnh hưởng dịch COVID-19 nhiều doanh nghiệp công nghiệp đã giảm công suất hoạt động nên nguồn điện sử dụng giảm, xuất hiện những cơn mưa trái mùa, một số dự án chưa được nối lưới phát điện do chưa có cơ chế giá điện mới,... đã ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng toàn ngành công nghiệp 5 tháng đầu năm 2022.

Để đảm bảo đạt các mục tiêu tăng trưởng đề ra, UBND tỉnh xây dựng các kịch bản tăng trưởng, đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp phấn đấu đạt chỉ tiêu năng lượng và thúc đẩy công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển khi dự báo khả năng chỉ tiêu năng lượng sụt giảm nhằm hoàn thành đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch năm 2022, cụ thể như sau:

I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU

1. Mục đích: Tập trung triển khai quyết liệt, đồng bộ và có hiệu quả những giải pháp để đạt được chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng công nghiệp tăng 16-17%, giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) tăng từ 17-18%. Cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp năm 2022 đối với lĩnh vực công nghiệp đề ra tại Quyết định 21/QĐ- UBND ngày 10/01/2022 của UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2022.

2. Yêu cầu: Các Sở, ngành, địa phương chủ động, tăng tốc, quyết liệt triển khai đồng bộ, hiệu quả, chất lượng các giải pháp được đề ra tại kế hoạch này. Kịp thời nắm bắt thông tin, triển khai và tham mưu phối hợp giải quyết nhằm tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc các dự án năng lượng, dự án công nghiệp tiêu biểu của ngành Công Thương; đẩy nhanh các dự án công nghiệp hoàn thành theo tiến độ, thúc đẩy công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, phấn đấu các sản phẩm chủ lực đạt hoặc vượt sản lượng theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

II. CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

Tốc độ tăng trưởng (GRDP) tăng từ 10-11%, trong đó công nghiệp tăng 16-17%.

Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) tăng từ 17-18% so cùng kỳ năm 2021.

III. DỰ KIẾN CÁC KỊCH BẢN TĂNG TRƯỞNG CỦA NGÀNH CÔNG THƯƠNG

Căn cứ kết quả tình hình kinh tế - xã hội tháng 5/2022, bên cạnh những yếu tố thuận lợi giúp một số ngành hàng công nghiệp chế biến phục hồi tích cực, có tốc độ tăng cao so cùng kỳ năm 20211, thì khó khăn, thách thức vẫn còn thường trực do ảnh hưởng dịch Covid - 19 nền kinh tế suy giảm, các công trình xây dựng đầu năm chưa có nhiều khởi sắc do đó nhu cầu tiêu thụ vật liệu xây dựng có giảm, hàng tồn kho còn, hoạt động sản xuất cầm chừng do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán, thiếu vốn, thiếu nguyên liệu sản xuất, giá nguyên liệu tăng, thị trường tiêu thụ trong nước bị thu hẹp, thị trường xuất khẩu, nhất là Trung Quốc đóng cửa do dịch bệnh. Ngoài ra, do ảnh hưởng biến động giá xăng dầu nên chi phí vận chuyển tăng cũng phần nào tác động đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, dẫn đến 10 sản phẩm giảm so cùng kỳ2.

Tiến độ đầu tư hạ tầng các Khu, cụm công nghiệp còn chậm3, công tác thu hồi đất, bàn giao mặt bằng Cụm công nghiệp còn vướng mắc4, nhà đầu tư thiếu quyết tâm, hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường của các Khu, cụm công nghiệp chưa hoàn thiện nên chưa đủ điều kiện để tiếp nhận các dự án đầu tư có phát sinh nước thải phải xử lý, chưa kịp thời điều chỉnh cục bộ Quy hoạch ngành nghề, điều này ảnh hưởng rất lớn đến công tác xúc tiến đầu tư các dự án thứ cấp vào Khu, cụm công nghiệp.

Một số dự án thứ cấp trong Khu, cụm công nghiệp dự kiến đầu tư hoàn thành, đưa vào hoạt động trong năm 20225 góp phần tăng thêm giá trị sản xuất nhóm công nghiệp-xây dựng, trong đó có 03 Công ty may xuất khẩu đầu tư dự án vào cùng thời điểm nên rất khó khăn trong công tác tuyển dụng, tìm kiếm lao động trong bối cảnh nguồn cung lao động cho ngành may mặc bị thiếu hụt nên chưa thể hoạt động hết công suất. Ngoài ra, giá chi phí máy móc thiết bị tăng cao so với dự kiến ban đầu nên doanh nghiệp phải tiếp tục đàm phán, tìm kiếm đối tác khác cung cấp, khó khăn về vốn đầu tư.

Các dự án năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) đang chờ hướng dẫn cơ chế giá để đấu nối phát điện đối với các dự án đã thi công hoàn thành6 và đang thi công sắp hoàn thành7 để được đấu nối, công nhận ngày vận hành thương mại, đây chính là điểm nghẽn lớn nhất, phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách của Trung ương. Một số dự án đã được bổ sung Quy hoạch phát triển điện lực nhưng chưa được xem xét cấp Quyết định chủ trương đầu tư do chưa có cơ chế giá và hướng dẫn thực hiện việc lựa chọn nhà đầu tư theo quy định nên chưa đủ điều kiện thực hiện dự án8, chưa được phê duyệt bổ sung phương án đấu nối9.

Trên cơ sở nhận định, đánh giá những yếu tố thuận lợi và khó khăn thách thức như trên, khả năng thích ứng của Tỉnh, UBND tỉnh xây dựng 03 kịch bản tăng trưởng của ngành Công Thương như sau:

1. Kịch bản 1: Tăng trưởng theo Kế hoạch của Tỉnh ủy giao, công nghiệp tăng 16,1%, đóng góp tăng trưởng 3,51% GRDP10 (tương đương tăng 16-17%). Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) dự kiến 17,1% (tương đương tăng 17-18%).

Đây là kịch bản tăng trưởng chính được xác định theo chỉ đạo, định hướng của Tỉnh ủy. Kịch bản này được dự báo kinh tế dần phục hồi sau đại dịch COVID-19, các dự án động lực của Tỉnh đẩy nhanh tiến độ, tạo bước đệm cho các ngành khác tăng trưởng, trong đó có công nghiệp; tiếp tục phát huy thế mạnh về năng lượng tái tạo, nhất là các dự án điện gió đã có giá điện và đưa vào vận hành cuối năm 2021, nay tiếp tục khai thác để đạt công suất tối đa đóng góp tăng thêm sản lượng điện sản xuất.

Theo kịch bản này, dự kiến tổng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp 5.530 tỷ đồng, cơ cấu nội bộ các nhóm ngành công nghiệp được phân bổ như sau:

+ Các nhóm ngành hiện có: Gồm 20 nhóm ngành, dự kiến tiếp tục tháo gỡ những khó khăn về thị trường tiêu thụ và nguyên liệu đầu vào các sản phẩm hiện có, dự kiến tạo ra giá trị gia tăng 1.278 tỷ đồng, tăng 11,2%, đóng góp cho tăng trưởng chung 0,68%.

+ Nhóm ngành năng lượng: Đến cuối năm 2021, có 53 dự án năng lượng đã hòa lưới điện quốc gia/3.181,7MW, phát điện với tổng sản lượng điện 6.300 triệu kWh. Căn cứ tiến độ đăng ký của các nhà đầu tư và kết quả rà soát thì trong năm 2022 dự kiến có 8 dự án năng lượng được hòa điện lưới Quốc gia/443MW (ĐG Habaram/93MW; ĐMT Thiên Tân 1.2, 1.3, 1.4/200MW; ĐMT Phước Thái 2, 3/120MW; thủy điện Mỹ Sơn/20MW; thủy điện Tân Mỹ/10MW) và Dự án triển khai đầu tư gồm 09 dự án/699 MW. Dự kiến sản lượng điện sản xuất năm 2022 khoảng 7.000 triệu kWh/3.624,7 MW, trong đó đã hòa lưới 53 dự án với sản lượng 6.300 triệu kWh/3.181,7MW, dự kiến hòa lưới trong năm 2022 khoảng 700 triệu kWh/443 MW (chuyển tiếp từ năm 2021 sang có 08 dự án điện gió/343,7 MW chỉ mới vận hành từ tháng 11/2021, năm 2022 sẽ phát huy năng lực phát điện, tính 60% công suất và các dự án mới hòa lưới tính 10% công suất do Chính phủ chậm ban hành giá FIT điện gió, điện mặt trời; tuy nhiên kỳ vọng sau khi Quy hoạch điện VIII được phê duyệt (dự kiến Quý II/2022), Bộ Công Thương sẽ đẩy nhanh tiến độ tham mưu giá điện mới, như vậy có khả năng các dự án đưa vào vận hành hòa lưới sẽ có giá tính từ Quý IV/2022). Riêng 02 dự án thủy điện (Mỹ Sơn, Tân Mỹ) dự kiến sẽ phát điện thuận lợi, đóng góp tăng thêm sản lượng khoảng 30 triệu kWh.

Theo đó, giá trị gia tăng lĩnh vực năng lượng dự kiến 4.252 tỷ đồng, tăng 17,7%, đóng góp cho tăng trưởng chung 2,83%.

2. Kịch bản 2: Dự kiến tăng trưởng 18,1% (tương đương tăng 18-19%, cao hơn kế hoạch 2%), đóng góp tăng trưởng chung 3,96% GRDP (cao hơn kịch bản 1 là 0,45%).

Kịch bản này xây dựng bám sát Kịch bản 1, tuy nhiên trong nội bộ ngành công nghiệp, kịch bản này được dự báo khả năng tăng trưởng sẽ dồn lực vào các nhóm ngành còn dư địa phát triển và đóng góp tăng thêm từ các nhóm sản phẩm hiện có (khai khoáng, công nghiệp chế biến chế tạo, ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải), một số dự án đầu tư dự kiến hoàn thành đưa vào hoạt động trong năm để bù đắp cho các sản phẩm có xu hướng giảm so kế hoạch vì còn hàng tồn kho, tiêu thụ yếu. Nhóm năng lượng đẩy mạnh các giải pháp để phát huy tối đa năng lực phát điện, tăng cường khả năng truyền tải điện, hỗ trợ các dự án thủy điện đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đưa vào vận hành từ Quý II.

Dự kiến tổng giá trị gia tăng 5.625 tỷ đồng, cơ cấu nội bộ các nhóm ngành công nghiệp được phân bổ như sau:

+ Các nhóm ngành hiện có: Gồm 20 nhóm ngành, dự báo nền kinh tế phục hồi, các gói kích cầu của Chính phủ được đẩy mạnh, các công trình dân dụng sẽ khởi sắc, các dự án đầu tư công được đẩy nhanh tiến độ góp phần thúc đẩy nhóm ngành công nghiệp cung cấp vật liệu xây dựng (đá xây dựng, xi măng, gạch nung,...) phục vụ các công trình trọng điểm (đường cao tốc, cảng biển, đường nối, hạ tầng thủy lợi), tăng năng lực sản xuất của một số sản phẩm chủ lực nhờ thị trường tiêu thụ tăng, xuất khẩu thuận lợi11; một số dự án đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công, dự kiến đưa vào vận hành từ Quý II/2022, đóng góp tăng thêm cho ngành công nghiệp may mặc12; bù đắp cho một số sản phẩm có xu hướng giảm13 so với kế hoạch. Dự kiến nhóm này tạo ra giá trị gia tăng 1.325 tỷ đồng, tăng 15,3%, đóng góp cho tăng trưởng chung 0,91%.

[...]