Kế hoạch 189/KH-UBND năm 2024 thực hiện Chiến lược quốc gia phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo trên địa bàn tỉnh Kon Tum

Số hiệu 189/KH-UBND
Ngày ban hành 19/01/2024
Ngày có hiệu lực 19/01/2024
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Kon Tum
Người ký Lê Ngọc Tuấn
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH KON TUM
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 189/KH-UBND

Kon Tum, ngày 19 tháng 01 năm 2024

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA PHÒNG THỦ DÂN SỰ ĐẾN NĂM 2030 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KON TUM

Thực hiện Quyết định số 1343/QĐ-TTg ngày 14 tháng 11 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch thực hiện trên địa bàn tỉnh cụ thể như sau:

I. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH

1. Tình hình thế giới, khu vực:

Hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, song tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế ngày càng gia tăng. Sự điều chỉnh chính sách, quan hệ đối ngoại của các nước lớn trong khu vực và trên thế giới diễn biến khó lường, đặt các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng đang gặp nhiều trở ngại, thách thức, tăng trưởng kinh tế thế giới, thương mại, đầu tư quốc tế đối mặt nhiều khó khăn, rủi ro; nợ công toàn cầu tăng, rủi ro tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Cạnh tranh kinh tế đã trở thành chiến tranh thương mại; sự tranh giành thị trường và các nguồn tài nguyên, nhân lực chất lượng cao ngày càng quyết liệt. Những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc xung đột tại Ukraine và tại Dải Gaza đang gây ra nguy cơ suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt, làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan, các loại hình thiên tai như bão, lũ, sạt lở đất, ngập lụt, hạn hán... đã và đang tác động xấu đến hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường và sự an toàn của con người. Bên cạnh đó, những vấn đề mang tính toàn cầu như nước biển dâng, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh nguy hiểm lây lan nhanh trên diện rộng tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động mạnh đến các quốc gia, dân tộc và đặt ra những thách thức cho sự phát triển bền vững.

Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa lý - kinh tế - chính trị, chiến lược ngày càng quan trọng. Tuy nhiên, khu vực này đang là nơi các nước lớn thử nghiệm chính sách gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng, tìm cách kiềm chế lẫn nhau. Đây cũng là nơi tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, cả truyền thống và phi truyền thống. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ do mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố tiếp diễn phức tạp; các điểm nóng về tranh chấp lãnh thổ vẫn tồn tại ở nhiều khu vực. Vai trò của luật pháp và các cơ chế quốc tế ngày càng được đề cao, nhưng một số nước vẫn đơn phương sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Ranh giới giữa chiến tranh và hòa bình diễn biến ngày càng phức tạp, nguy cơ dẫn đến thúc đẩy chạy đua vũ trang ngày càng gia tăng. Tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền trên Biển Đông đang nổi lên thành điểm nóng, thu hút sự chú ý của các nước trong và ngoài khu vực, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang, không loại trừ nguy cơ chiến tranh.

2. Tình hình trên địa bàn tỉnh:

a) Đặc điểm địa hình, khí hậu, thủy văn:

- Tỉnh Kon Tum nằm ở cực Bắc Tây Nguyên, diện tích 9.676,5km2 (chiếm 3,1% diện tích toàn quốc), có đường biên giới Quốc gia dài 292,913km, độ cao trung bình khoảng 900m so với mực nước biển; có tọa độ 13°55’ đến 15°27’ vĩ độ Bắc; 107°21’ đến 108°30’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam (142km), phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi (74km), phía Nam giáp tỉnh Gia Lai (203km) và phía Tây giáp Lào (154,222km), giáp Campuchia (138,691km); có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, 102 đơn vị hành chính cấp xã, 756 thôn, tổ dân phố.

- Về địa hình: Địa hình của tỉnh thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây, chủ yếu là đồi núi và vùng trũng xen kẽ phức tạp. Trong đó, núi Ngọc Linh là núi cao nhất khu vực Tây Nguyên, là nơi bắt nguồn của các nhánh sông như: Sông Tranh, sông Cái chảy về Quảng Nam; sông Sê San chảy về sông Mê Kông, sông Ba chảy về Gia Lai; trên địa phận tỉnh Kon Tum có sông Đăk La dài 102km và sông Sa Thầy dài 115km.

- Khí hậu: Khí hậu tỉnh có nét chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa của phía Nam Việt Nam, tổng nhiệt độ trong năm từ 8.000°C-8.500°C, nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 22°C-23°C, biên độ nhiệt độ dao động trong ngày từ 8°C-9°C, độ ẩm trung bình hàng năm từ 78%-87%, lượng mưa trung bình 1.880mm. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau nên thời tiết hanh khô tiềm ẩn nguy cơ cháy rừng và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 năm sau với lượng mưa nhiều, độ ẩm lớn nên tiềm ẩn nguy cơ ngập lụt, sạt lở đất, lũ ống...

- Thổ nhưỡng: Kon Tum được chia thành 07 nhóm đất chính, gồm đất phù sa, đất Glêy, đất mới biến đổi, đất xám, đất đỏ, đất mùn Alít núi cao, đất xói mòn trơ sỏi đá. Đến năm 2020, đất chưa sử dụng còn 40.385,1ha, chiếm 4,1% tổng diện tích toàn tỉnh; diện tích đất lâm nghiệp 609.468,6ha, độ che phủ rừng khoảng 63%. Về khoáng sản có 40 loại và đang ở mức độ khảo sát lập bản đồ khoáng sản.

b) Về chính trị, kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh:

Sau hơn 30 năm đổi mới, tỉnh Kon Tum đã đạt được nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng, đời sống Nhân dân ngày càng được cải thiện; tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 46,78 triệu đồng/người; công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt được kết quả tích cực. Chỉ tiêu cân đối của nền kinh tế về tích lũy - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động, việc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng; ngành công nghiệp chuyển biến cả về quy mô và chất lượng; Du lịch đang từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và sản xuất nông nghiệp phát triển theo chiều sâu. Một số loại cây công nghiệp chủ lực của tỉnh phát triển ổn định, trở thành mặt hàng nông sản quan trọng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Sâm Ngọc Linh và các loại dược liệu khác được mở rộng diện tích, tạo ra các vùng chuyên canh nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến.

Hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông được đầu tư cơ bản đồng bộ, diện mạo đô thị từng bước đổi mới. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, góp phần cải thiện đời sống của người dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện, nổi bật là một số nhà đầu tư, tập đoàn kinh tế lớn đã lựa chọn Kon Tum là địa điểm đầu tư lý tưởng và triển khai nhiều dự án tổ hợp trung tâm thương mại, du lịch, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, nông nghiệp công nghệ cao... có quy mô lên tới hàng nghìn tỷ đồng.

Nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân dân vững mạnh toàn diện, các tiềm lực trong khu vực phòng thủ được củng cố, tăng cường. Chất lượng tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang tỉnh được nâng lên; an ninh biên giới được bảo đảm, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật được kiềm chế. Công tác đối ngoại được mở rộng và đi vào chiều sâu; thiên tai, dịch bệnh được kiểm soát hiệu quả; đời sống của Nhân dân cải thiện, niềm tin của quần chúng Nhân dân vào Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới ngày càng được củng cố.

Tuy nhiên, tỉnh Kon Tum đang đối mặt với nhiều thách thức; nguồn lực hạn chế làm chậm các chương trình quốc gia nhằm nâng cao khả năng chống chịu, ứng phó với biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đến nền kinh tế và các vùng dân cư. Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên một số lĩnh vực, địa bàn còn tiềm ẩn phức tạp; cháy, nổ, sự cố, tai nạn diễn biến phức tạp, một số vụ làm chết nhiều người, thiệt hại lớn về vật chất, ảnh hưởng tiêu cực đến an toàn, an sinh xã hội, gây hoang mang dư luận. Ô nhiễm môi trường ở các khu đô thị, làng nghề chậm khắc phục; hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai còn hạn chế. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra động lực và thời cơ để phát triển kinh tế nhưng cũng đặt ra những thách thức, rủi ro đối với một số lĩnh vực (trật tự, an toàn xã hội, lao động, việc làm...).

c) Thực trạng công tác phòng thủ dân sự:

Công tác phòng thủ dân sự thời gian qua được triển khai đồng bộ từ tỉnh đến huyện, xã, phường, thị trấn và đã đạt được những kết quả quan trọng trong phòng, chống, khắc phục hậu quả sự cố, thiên tai, dịch bệnh, thảm họa góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Công tác chỉ đạo, chỉ huy và phối hợp giữa các lực lượng xử lý khi có tình huống được vận hành thông suốt, bảo đảm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Trung ương và địa phương nhằm tăng cường khả năng phòng ngừa và giảm thiểu thiệt hại do sự cố, thiên tai, dịch bệnh, thảm họa gây ra. Công tác xây dựng kế hoạch tại các sở, ban ngành, địa phương nhằm ứng phó với các tình huống sự cố, thiên tai, dịch bệnh, thảm họa đã bước đầu đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Lực lượng chuyên trách, kiêm nhiệm được quan tâm xây dựng về tổ chức, đầu tư về trang bị và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả sự cố, thiên tai, dịch bệnh, thảm họa. Các công trình phục vụ nhiệm vụ phòng thủ dân sự đang được triển khai theo quy hoạch của các đơn vị, địa phương.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác phòng thủ dân sự vẫn còn những hạn chế, bất cập như: Hiệu quả công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về phòng thủ dân sự cho người dân khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa cao; nhận thức về phòng thủ dân sự chưa thống nhất; văn bản quy phạm pháp luật về công tác phòng thủ dân sự chưa đầy đủ… Việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào giám sát dự báo, cảnh báo... chưa đồng bộ, chưa tạo đột phá trong công tác quản lý rủi ro thảm họa thiên tai; còn bị động đối với một số loại hình thiên tai như lũ lụt, sạt lở đất...; việc di dời người dân từ vùng có nguy cơ cao đến khu vực an toàn theo phương án, quy hoạch còn chậm, chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh. Công tác luyện tập, diễn tập một số loại hình sự cố, thiên tai mới dừng ở mức độ nghiên cứu, chưa thực sự mang tính huấn luyện kỹ năng cho cộng đồng. Trang bị, phương tiện của lực lượng chuyên ngành vẫn thiếu cả về số lượng và chủng loại. Sự phối hợp giữa các sở, ban ngành, địa phương trong việc xây dựng, thực hiện quy hoạch cũng như ứng phó một số loại hình sự cố, thiên tai chưa thống nhất, thiếu đồng bộ trong tổ chức thực hiện. Công tác quản lý, thực hiện quy hoạch chưa đảm bảo nên thiệt hại do sự cố, thiên tai lớn. Công trình phòng, chống thiên tai triển khai chậm, công trình phòng ngừa thảm họa chiến tranh chưa được quan tâm xây dựng đúng mức, có nơi chưa được lồng ghép vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Phòng thủ dân sự có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời bình, phòng thủ dân sự ngăn ngừa, khắc phục hậu quả do sự cố, thiên tai, dịch bệnh, thảm họa bảo vệ nhân dân, bảo vệ các nguồn lực của đất nước. Khi xảy ra chiến tranh, phòng thủ dân sự trực tiếp khai thác và tạo ra sức mạnh tại chỗ để khắc phục hậu quả chiến tranh, bảo vệ các mục tiêu, góp phần bảo vệ tiềm lực quốc gia, tăng cường sức mạnh quân sự. Chính vì vậy, công tác phòng thủ dân sự phải được tổ chức chặt chẽ, vận hành thông suốt, đồng bộ, hiệu quả, thường xuyên và liên tục.

II. QUAN ĐIỂM KẾ HOẠCH

1. Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng thủ dân sự nhằm cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Bộ Chính trị về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo; phù hợp với Kế hoạch triển khai thi hành Luật Phòng thủ dân sự năm 2023 và Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 09 tháng 01 năm 2023; đặt trong tổng thể Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc và kết hợp chặt chẽ với các chiến lược chuyên ngành liên quan.

2. Phòng thủ dân sự là một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Phòng thủ dân sự đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, trực tiếp là sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, điều hành của chính quyền các cấp. Người đứng đầu các sở, ban ngành, địa phương chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện phòng thủ dân sự ở cấp mình.

3. Phòng thủ dân sự phải chủ động, chuẩn bị từ sớm, từ xa, từ trước khi xảy ra sự cố, thiên tai, dịch bệnh, thảm họa, chiến tranh; phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các lực lượng và toàn dân để phòng ngừa chủ động, ứng phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và hiệu quả; thực hiện tốt phương châm “bốn tại chỗ” kết hợp với chi viện, hỗ trợ của Trung ương, các địa phương khác và cộng đồng quốc tế.

[...]