Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Kế hoạch 17/KH-UBND về phòng, chống dịch bệnh động vật thủy sản tỉnh Lào Cai năm 2020

Số hiệu 17/KH-UBND
Ngày ban hành 17/01/2020
Ngày có hiệu lực 17/01/2020
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Lào Cai
Người ký Trịnh Xuân Trường
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH LÀO CAI
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Đ
ộc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 17/KH-UBND

Lào Cai, ngày 17 tháng 01 năm 2020

 

KẾ HOẠCH

PHÒNG, CHỐNG DỊCH BỆNH ĐỘNG VẬT THỦY SẢN TỈNH LÀO CAI NĂM 2020

I. TÌNH HÌNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÀ DỊCH BỆNH ĐỘNG VẬT THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÀO CAI NĂM 2019

1. Tình hình nuôi trồng thủy sản

Năm 2019, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 2.079 ha, sản lượng đạt 8.730 tấn đạt 89% so với mục tiêu Đề án.

a) Diện tích, năng suất, sản lượng:

- Nuôi cá ao, hồ nhỏ: Diện tích nuôi cá ao hồ nhỏ đạt 2.079 ha; sản lượng đạt 7.491 tấn, đạt 89,2 % mục tiêu Đề án. Đối tượng nuôi chủ yếu là các giống cá truyền thống (cá trắm, chép, trôi, mè,...) chiếm đến 90% diện tích và sản lượng nuôi trồng; phương thức nuôi chủ yếu là quảng canh cải tiến, bán thâm canh.

- Nuôi cá lồng bè trên sông và hồ chứa: Thể tích nuôi cá lồng đạt 14.725 m3; sản lượng đạt 270 tấn, đạt 90% mục tiêu Đề án. Đối tượng nuôi lồng chủ yếu là cá ưa nước chảy, ăn thức ăn trực tiếp như: cá trắm cỏ, rô phi đơn tính, chép lai, lăng, chiên. Phương thức nuôi chủ yếu là bán thâm canh và thâm canh.

- Nuôi cá nước lạnh: Thể tích nuôi nước lạnh đạt 54.245 m3; sản lượng đạt 598,5 tấn, đạt 90% mục tiêu Đề án. Đối tượng nuôi là loài cá hồi, cá tầm với phương thức nuôi thâm canh. Địa điểm nuôi tại 6/9 huyện, thị xã gồm: Sa Pa, Bát Xát, Văn Bàn, Bảo Yên, Bắc Hà và thành phố Lào Cai nhưng tập trung chủ yếu ở huyện Bát Xát, thị xã Sa Pa.

- Nuôi cá hồ chứa, mặt nước lớn: Diện tích nuôi đạt 280 ha; sản lượng đạt 220 tấn, đạt 84% mục tiêu Đề án. Đối tượng nuôi là loài cá truyền thống với phương thức nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến.

2. Tình hình dịch bệnh

- Dịch bệnh động vật thủy sản trên địa bàn tỉnh có xu hướng gia tăng, gây thiệt hại đáng kể về kinh tế, nhất là các bệnh ảnh hưởng lớn đến sản xuất như: Bệnh vi rút mùa xuân trên cá chép, cá trắm cỏ, bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn ở cá rô phi, bệnh đốm đỏ ở cá trắm cỏ, bệnh nấm, ký sinh trùng, xuất huyết ở cá tầm, cá hồi, bệnh hoại tử cơ quan tạo máu ở cá hồi...

- Năm 2019, do người dân đã tích cực, chủ động trong công tác phòng, chống dịch bệnh theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn nên trên địa bàn tỉnh không xảy ra dịch bệnh nghiêm trọng. Tuy nhiên, tại một số cơ sở nuôi trồng thủy sản xảy ra hiện tượng các chết bất thường như tại một số cơ sở nuôi cá nước lạnh của thị xã Sa Pa và một số hộ gia đình nuôi các đối tượng cá truyền thống (cá trắm cỏ, cá chép, rô phi đơn tính huyện Bảo Thắng, Bảo Yên) ...ước thiệt hại khoảng 25 ha.

3. Nguyên nhân dịch

- Kiến thức người nuôi thủy sản còn hạn chế, khi dịch xảy ra người dân không khai báo với cơ quan chuyên môn và chính quyền cơ sở theo quy định, không thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch kịp thời làm dịch lây lan. Con giống một phần là nhập từ các địa phương khác, không rõ nguồn gốc, không có Giấy chứng nhận kiểm dịch.

- Quy mô nuôi nhỏ lẻ vẫn chiếm đa số, ý thức phòng chống dịch bệnh còn hạn chế, chưa chú trọng đến công tác phòng bệnh. Sự biến đổi của thời tiết và môi trường nuôi bị ô nhiễm do mưa lũ và các ao, hồ nuôi gần khu công nghiệp cũng tác động bất lợi đến đối tượng nuôi.

- Việc xử lý mầm bệnh tại các vùng ao hồ nuôi thủy sản bị bệnh chưa được người dân quan tâm, chính vì vậy mầm bệnh tồn tại lâu dài trong môi trường nuôi làm phát sinh dịch trong vụ nuôi mới.

4. Thuận lợi, khó khăn trong quản lý dịch bệnh động vật thủy sản

4.1. Thuận lợi

- Nuôi trồng thủy sản được xác định là ngành kinh tế quan trọng của ngành nông nghiệp. Luôn nhận được sự quan tâm của các cấp chính quyền trong hoạt động phát triển kinh tế thủy sản.

- Điều kiện tự nhiên thuận lợi và tiềm năng nguồn lợi thủy sản trong tỉnh đa dạng phong phú là cơ sở cho phát triển nuôi trồng thủy sản.

- Sản phẩm thủy sản nhìn chung đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong tỉnh và một phần xuất ra ngoài tỉnh.

4.2. Khó khăn và thách thức

- Tình trạng nuôi trồng thủy sản nhỏ lẻ, manh mún, tự phát, phân tán chưa đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y đang còn phổ biến dễ nhiễm mầm bệnh nên khó khăn cho việc quản lý, kiểm soát dịch bệnh tạo thuận lợi cho dịch bệnh phát sinh.

- Nguy cơ sử dụng tràn lan không có kiểm soát các loại hóa chất cấm, thuốc kháng sinh không có trong danh mục cho phép để phòng, trị bệnh động vật thủy sản diễn ra tùy tiện, đặc biệt trong nuôi cá, ảnh hưởng đến chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như xây dựng thương hiệu sản phẩm.

- Ý thức người nuôi trồng thủy sản chưa cao, hiện tượng bán chạy thủy sản mắc bệnh, xả nước nhiễm bệnh ra môi trường... gây khó khăn trong việc áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh cho động vật thủy sản nuôi.

- Cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thú y thủy sản hiện nay còn thiếu, chưa có chuyên môn sâu, phải bố trí nhân viên thú y kiêm thêm nhiệm vụ thú y thủy sản. Bên cạnh đó là các hạn chế về trang thiết bị chẩn đoán xét nghiệm, hệ thống báo cáo và cảnh báo dịch bệnh thủy sản, kinh nghiệm giám sát, điều tra ổ dịch còn thiếu và yếu.

- Hệ thống quản lý dịch bệnh Thú y thủy sản chưa được quan tâm, cán bộ làm công tác thú y thủy sản cấp huyện, cấp xã chưa được đào tạo, tập huấn chuyên môn.

[...]