Đề án 8402/ĐA-UBND năm 2021 thí điểm về đảm bảo an sinh xã hội tỉnh Bến Tre giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn 2030

Số hiệu 8402/ĐA-UBND
Ngày ban hành 20/12/2021
Ngày có hiệu lực 20/12/2021
Loại văn bản Văn bản khác
Cơ quan ban hành Tỉnh Bến Tre
Người ký Trần Ngọc Tam
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 8402/ĐA-UBND

Bến Tre, ngày 20 tháng 12 năm 2021

ĐỀ ÁN

THÍ ĐIỂM VỀ ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2021 - 2025,  TẦM NHÌN 2030

Mở đầu

SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, xem đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thể hiện tính ưu việt của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đề ra chiến lược phát triển kinh- xã hội giai đoạn 2021-2030, trong đó chiến lược về phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, trong đó nêu rõ chiến lược an sinh xã hội là: “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo. Đổi mới cách tiếp cận, tăng cường phối hợp, lồng ghép, ưu tiên nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực trợ giúp xã hội. Phát triển và đa dạng hóa các dịch vụ xã hội chuyên nghiệp.”

Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp thuộc vùng đồng bằng Sông Cửu Long, điều kiện kinh tế của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, tỉnh chưa tự cân đối được thu- chi ngân sách, nhưng vẫn quan tâm và nỗ lực thực hiện đảm bảo an sinh xã hội cho người dân. Tuy nhiên, hiện nay do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh Covid-19 tác động rất lớn đến phát triển kinh tế-xã hội, làm cho đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn, nhất là người nghèo, cận nghèo và đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng yếu thế khác.

Nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu cho người dân, đặc biệt là nhóm gia đình chính sách người có công với cách mạng thuộc diện hộ nghèo và nhóm bảo trợ xã hội thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần, có mức sống ngang bằng với mức sống trung bình với cộng đồng dân cư nên việc xây dựng “Đề án thí điểm về đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn 2030” hết sức cần thiết (sau đây viết tắt là Đề án)

Mục tiêu chính của Đề án là đến năm 2025 Bến Tre cơ bản thực hiện được mục tiêu kép:

(1) Chăm lo tốt cho gia đình chính sách và giảm nghèo bền vững;

(2) Đảm bảo an sinh xã hội cho 100% đối tượng bảo trợ xã hội.

II. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

Luật người cao tuổi, Luật trẻ em, Luật người khuyết tật;

Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương về Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm khóa XI một số vấn đề về chính sách an sinh xã hội giai đoạn 2012-2020.

Kết luận số 92-KL/TW ngày 05/11/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 và Kế hoạch số 14-KH/TU ngày 30/12/2020 của Tỉnh ủy Bến Tre về việc triển khai thực hiện Kết luận số 92-KL/TW ngày 05/11/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

Quyết định số 488/QĐ-TTg ngày 14/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017-2025 và tầm nhìn đến năm 2030”.

Phần thứ nhất

THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE  GIAI ĐOẠN 2016- 2020

I. TỔNG QUAN VỀ THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

Thời gian qua, do tác động của thiên tai, dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta, làm cho đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm đến chính sách an sinh xã hội. Giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương chính sách về an sinh xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật tiếp tục mở rộng hơn quyền hưởng, mức hưởng các chế độ ưu đãi xã hội và an sinh xã hội cho người dân, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội và giảm nghèo bền vững. Hệ thống chính sách trợ giúp xã hội không ngừng mở rộng, bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng từ trẻ sơ sinh đến người già; hỗ trợ không chỉ người nghèo mà còn mở rộng sang các đối tượng khác. Mức chuẩn trợ cấp được điều chỉnh tăng, điều kiện hưởng và hình thức hỗ trợ ngày càng mở rộng. Các hình thức trợ giúp ngày càng đa dạng, bao gồm tiền mặt hàng tháng tại cộng đồng, tiền nuôi dưỡng tập trung trong các cơ sở bảo trợ xã hội, hỗ trợ về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch vệ sinh môi trường... công tác trợ cấp đột xuất được thực hiện tương đối tốt và kịp thời.

Ngoài thực hiện tốt các chính sách của Trung ương, tỉnh đã chủ động ban hành các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng thụ hưởng phù hợp với điều kiện kinh tế địa phương, mang lại hiệu quả và lợi ích thiết thực. Đặc biệt là chính sách hỗ trợ người lao động tham gia lao động có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng hoặc hỗ trợ người lao động thuộc hộ nghèo, hộ khó khăn tham gia chương trình khởi nghiệp thoát nghèo.

Tuy nhiên, công tác an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng thời tiết diễn biến bất thường, đặc biệt là hạn mặn xâm nhập sâu năm 2016, năm 2019-2020 diễn ra gay gắt, kéo dài và hiện nay là đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp đã tác động tiêu cực đến các mặt đời sống kinh tế-xã hội làm cho đời sống người dân, đặc biệt là đối tượng yếu thế, người nghèo, người lao động tự do trên địa bàn tỉnh chịu ảnh hưởng nghiêm trọng, không có việc làm. Việc triển khai thực hiện một số chính sách xã hội vẫn còn khó khăn, do nguồn lực còn hạn chế.

II. KẾT QUẢ VỀ THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI

1. Thực hiện chính sách ưu đãi, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người có công

Toàn tỉnh có trên 140 ngàn người có công với cách mạng có hồ sơ quản lý, có trên 25 ngàn người có công đang hưởng trợ cấp hàng tháng; việc giải quyết chế độ ưu đãi, chi trả trợ cấp được quan tâm thực hiện kịp thời, đúng quy định. Đã phong tặng, truy tặng cho 6.910 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (hiện nay có 265 mẹ còn sống và được các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh nhận phụng dưỡng). Phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống người có công với cách mạng được toàn xã hội quan tâm hưởng ứng với nhiều hoạt động thiết thực, hiệu quả. Đồng thời, thực hiện tốt công tác tu sửa, nâng cấp, chỉnh trang các nghĩa trang và công trình ghi công liệt sĩ.

2. Về bảo đảm an sinh xã hội

2.1. Về việc làm, thị trường lao động và giảm nghèo

[...]