Công văn 783/TM-XNK năm 2001 về các đề án đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng rau quả và thịt lợn thời kỳ 2001 - 2010 do Bộ Thương mại ban hành

Số hiệu 783/TM-XNK
Ngày ban hành 30/03/2001
Ngày có hiệu lực 30/03/2001
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Bộ Thương mại
Người ký Vũ Khoan
Lĩnh vực Xuất nhập khẩu

BỘ THƯƠNG MẠI
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 0783/TM-XNK

Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2001

 

TỜ TRÌNH

VỀ CÁC ĐỀ ÁN ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG RAU QUẢ VÀ THỊT LỢN THỜI KỲ 2001-2010

Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ

Để góp phần thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp (Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000), đồng thời triển khai thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ thời kỳ 2001-2010 (số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000), Bộ Thương mại đã tổ chức nghiên cứu, lấy ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành, các địa phương và các doanh nghiệp có liên quan xây dựng hai Đề án đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng rau hoa quả và thịt lợn trong thời kỳ 2001-2010.

Đây là những nhóm mặt hàng có vị trí quan trọng và lợi thế ở nước ta; tuy trước mắt còn nhiều khó khăn, nhưng tiềm năng khá lớn, nếu có chính sách, biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm thì sẽ góp phần không nhỏ vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tạo nguồn sản phẩm hàng hóa dồi dào đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trên thị trường nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thêm việc làm, nhất là đối với nông nhàn, cải thiện đời sống nông dân.

Trên cơ sở đánh giá tình hình những năm qua và triển vọng, Bộ Thương mại kiến nghị mục tiêu, phương hướng phát triển, vấn đề thị trường và các chính sách, biện pháp nhằm mở rộng sản xuất và xuất khẩu các nhóm hàng này trong thời kỳ 2001-2010 như sau:

I. Khái quát tình hình sản xuất và xuất khẩu rau hoa quả và thịt lợn của Việt Nam trong thời gian qua

Tình hình sản xuất và xuất khẩu các chủng loại hàng hóa này trong thời gian qua có những nét chủ yếu sau:

1. Rau hoa quả:

1.1. Theo Niên giám thống kê, giá trị sản lượng rau đậu và cây ăn quả năm 1995 tăng 16,3% so với năm 1990 và năm 1998 tăng 10,2% so với năm 1995, đặt 11.635 tỷ đồng. Tuy nhiên, tỷ trọng của chúng trong giá trị sản lượng trồng trọt cũng như tổng giá trị sản lượng nông nghiệp hầu như không thay đổi (chiếm khoảng trên dưới 15% giá trị sản lượng trồng trọt và khoảng trên dưới 12% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp).

Diện tích trồng rau khoảng 400 ngàn ha, với năng suất khoảng 15 tấn/ha, đạt sản lượng gần 6 triệu tấn/năm, tiêu dùng trong nước bình quân 60 - 65 kg/người/năm (so với mức trung bình của thế giới: năng suất 35 - 40 tấn/ha và tiêu dùng 85 kg/người/năm; riêng Châu á khoảng 90 kg). Diện tích trồng cây ăn quả năm 1998 có 437,5 ngàn ha, với năng suất bình quân 9 ha/năm, sản lượng đạt gần 4 triệu tấn/năm, bình quân 55 - 60 kg/người/năm (so với thế giới: năng suất khoảng 30 - 35 tấn/ha; bình quân đầu người khoảng 70 kg/năm, trong đó ở Pháp 191 kg, Nhật 160 kg). Diện tích trồng hoa ước đạt 1.600 ha, sản lượng khoảng 300 triệu cành/năm.

Những con số trên cho thấy, nói chung năng suất rau quả của ta còn thấp; chất lượng kém, không đồng đều, giá thành sản phẩm cao, chưa có nhiều giống tốt, quy trình canh tác, chăm bón lạc hậu, sâu bệnh nhiều chưa bảo đảm yêu cầu rau quả sạch, tổ chức và kỹ thuật thu hái - bảo quản - vận chuyển chưa tốt gây tổn thất lớn sau thu hoạch, ảnh hưởng xấu đến chất lượng và tăng giá thành sản phẩm.

1.2. Xuất khẩu rau quả của ta từ năm 1990 trở về trước chủ yếu tập trung vào thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu, năm 1990 kim ngạch xuất khẩu rau quả tươi và chế biến đạt 52,3 triệu R/USD; trong đó có 20 ngàn tấn quả tươi, 24,2 ngàn tấn quả hộp, 9 ngàn tấn hạt tiêu. Khi đó có thuận lợi là được cung ứng nhiều loại vật tư quan trọng, có đội tầu chuyên dùng của Liên Xô bảo đảm vận tải biển đường dài với giá cước rất hạ do bao cấp.

Sau năm 1990, do thị trường xuất khẩu chủ yếu của ta biến động mạnh nên xuất khẩu rau quả giảm liên tục: năm 1991 chỉ còn 33,2 triệu R/USD, năm 1992: 32,3 triệu R/USD, năm 1993: 23,6 triệu R/USD và năm 1994 chỉ còn 20,8 triệu R/USD.

Từ năm 1995 trở lại đây do cải tiến sản xuất - kinh doanh, tìm kiếm chuyển đổi thị trường, xây dựng quan hệ bạn hàng mới, nên kim ngạch xuất khẩu tăng dần:

Kim ngạch (triệu USD)

Trong đó

Rau quả

Hạt tiêu

1995

94,9

56,1

38,8

1996

107,7

61,0

46,7

1997

130,9

68,2

62,7

1998

117,4

53,0

64,4

(giảm do bị ảnh hưởng khủng hoảng tài chính khu vực)

1999

242,1

104,9

137,2

2000

359,4

213,5

145,9

Như vậy, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rau quả trong hai năm gần đây khá cao. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu mới chỉ chiếm khoảng 7-8% giá trị sản lượng hàng năm của nhóm hàng này.

Đến nay các loại rau hoa quả và hạt tiêu của Việt Nam đã được tiêu thụ ở 50 nước và lãnh thổ, trong đó riêng rau quả năm 2000 xuất khẩu sang một số thị trường cụ thể như sau: Trung Quốc 120,3 triệu USD, Đài Loan 20,8 triệu USD, Hàn Quốc 13,7 triệu USD, Nhật Bản 11,7 triệu USD, Nga 4,6 triệu USD, Hồng Kông 3,3 triệu USD, Mỹ 2,2 triệu USD, Hà Lan 2,2 triệu USD, Pháp 2,1 triệu USD, Lào 2,1 triệu USD, Italia 2 triệu USD, Đức gần 2 triệu USD...

2. Thịt lợn:

2.1. Ngành chăn nuôi trong những năm qua tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những bước phát triển nhất định. Đến nay chăn nuôi chiếm khoảng 20% giá trị sản lượng nông nghiệp. Sản lượng thịt trong giai đoạn 1990 - 1998 tăng khoảng 58%, bình quân mỗi năm tăng thêm 6%. Trong cơ cấu thịt ở nước ta, thịt lợn chiếm tới 80 - 85% (năm 1998 đạt 1,250 triệu tấn thịt lợn hơi/1,465 triệu tấn thịt hơi các loại, năm 2000 đạt gần 1,42 triệu tấn). Cơ cấu này khác nhiều so với cơ cấu chung của thế giới: sản lượng thịt của 3 nhóm chủ yếu: thịt bò, bê... (thường gọi chung là động vật có sừng), thịt lợn và thịt gia cầm thường không chênh lệch nhau nhiều (sản lượng thịt trên thế giới mấy năm gần đây khoảng 230 - 240 triệu tấn, trong đó thịt lợn khoảng 90 triệu tấn).

Sản lượng thịt bình quân theo đầu người ở Việt Nam khoảng 22 kg thịt hơi/năm, trong đó chủ yếu là thịt lợn. Đây là mức khá thấp so với nhiều nước trên thế giới (riêng thịt lợn chỉ bằng 20 - 30% mức tiêu dùng ở một số nước có mức tiêu thụ cao về thịt lợn hiện nay). Phần lớn (khoảng 70%) thịt lợn được tiêu thụ dưới dạng thịt tươi, giết mổ một phần được bảo quản đông lạnh và tiêu thụ chủ yếu ở các thành phố lớn hoặc xuất khẩu và một phần rất nhỏ được chế biến sâu dưới dạng thực phẩm, thức ăn nguội. Hệ thống các cơ sở giết mổ, chế biến, bảo quản thịt còn lạc hậu, chưa bảo đảm vệ sinh thực phẩm; chỉ có trên 20 cơ sở có thể tham gia giết mổ, chế biến thịt xuất khẩu với công suất khoảng 50.000 tấn/ca/năm, nhưng nói chung thiết bị của các cơ sở này đã cũ, lạc hậu về công nghệ.

Chất lượng thịt lợn của ta còn kém, chưa bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, tỷ lệ nạc thấp, trung bình chỉ khoảng 30 - 35%, còn ở những nước có ngành chăn nuôi phát triển tỷ lệ thịt nạc đạt tới 50 - 55%; tuy nhiên gần đây một số cơ sở chăn nuôi của ta đã có sản phẩm đạt tỷ lệ thịt nạc cao trên 50%. Giá thành còn cao do chưa có nhiều giống tốt năng suất cao; giá thức ăn gia súc khá đắt, trong khi giá trị thức ăn chiếm tới 68-72% giá thành sản phẩm.

Tóm lại, chất lượng thấp, giá thành cao là nguyên nhân chủ yếu gây khó khăn trong tiêu thụ thịt, nhất là trong xuất khẩu.

2.2. Xuất khẩu thịt lợn đã được thực hiện hơn chục năm nay, năm cao nhất (1991) đạt 25.000 tấn với kim ngạch trên 30 triệu R/USD (tương đương 60.000 - 65.000 tấn lợn hơi, vì qua chế biến thịt mảnh đông lạnh đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thường chỉ đạt 30 - 35% số lượng thịt hơi nguyên liệu). Trong điều kiện ngành chăn nuôi của ta chưa phát triển, mức tiêu dùng trong nước còn thấp, chất lượng sản phẩm chăn nuôi và chế biến còn kém, giá thành cao..., việc hàng năm xuất khẩu được một khối lượng thịt nhất định đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu nhập cho nông dân, đồng thời tích luỹ kinh nghiệm, tìm kiếm thị trường xuất khẩu.

Trong thời gian qua ta mới chỉ xuất khẩu được thịt lợn sữa, lợn choai sang thị trường Hồng Kông, gần đây có xuất lợn sữa sang Malaysia, Trung Quốc, Lào. Thịt lợn mảnh đông lạnh mới xuất được sang thị trường Liên Xô cũ và có năm xuất khẩu dang Bulgarie; sau đó chỉ còn thị trường Nga. Vài năm gần đây việc xuất khẩu thịt lợn sang Nga gặp nhiều khó khăn do giá xuất khẩu giảm mạnh, việc thanh toán chưa thông suốt, còn rủi ro... Ngoài ra, ta còn thăm dò khả năng xuất khẩu thịt sang Singapore, Nhật, Hàn Quốc, nhưng chưa có kết quả. Nói chung thực hiện xuất khẩu thịt khá hạn hẹp, không dễ mở và thâm nhập như đối với mặt hàng rau quả, vì các nước quản lý rất chặt chẽ việc nhập khẩu thịt.

II. Phương hướng, mục tiêu xuất khẩu rau hoa quả và thịt lợn, thời kỳ 2001-2010.

Để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước trong thời kỳ 2001 - 2010, Bộ Thương mại đề nghị phương hướng, mục tiêu xuất khẩu nhóm hàng rau hoa quả và thịt lợn đến 2010 đại thể như sau:

1. Rau hoa quả:

[...]