Công văn 1665/TTCP-PC năm 2018 về tuyên truyền, phổ biến Luật Tố cáo 2018 do Thanh tra Chính phủ ban hành

Số hiệu 1665/TTCP-PC
Ngày ban hành 02/10/2018
Ngày có hiệu lực 02/10/2018
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Thanh tra Chính phủ
Người ký Nguyễn Văn Thanh
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

THANH TRA CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1665/TTCP-PC
V/v tuyên truyền, phổ biến Luật Tố cáo 2018

Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2018

 

Kính gửi:

- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao;
- Tòa án Nhân dân tối cao;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội;
- Hội Luật gia Việt Nam;
- Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Luật Tố cáo số 25/2018/QH14 được Quốc hội Khóa XIV, Kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/06/2018, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2019; là công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013; có nhiều điểm mới so với Luật Tố cáo 2011. Thanh tra Chính phủ đăng tải toàn văn nội dung Luật Tố cáo 2018 trên Cổng thông tin điện tử Thanh tra Chính phủ và cập nhật trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân dễ dàng tiếp cận, khai thác và sử dụng; đồng thời đăng tải Tài liệu giới thiệu về Luật trên Cổng thông tin điện tử Thanh tra Chính phủ (địa chỉ http://www.thanhtra.gov.vn) để đảm bảo thống nhất nhận thức về nội dung của Luật.

Thanh tra Chính phủ đề nghị các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội phổ biến, hướng dẫn, cung cấp tài liệu tuyên truyền về Luật Tố cáo năm 2018 cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc và các tầng lớp nhân dân; chủ động lựa chọn nội dung và hình thức tuyên truyền về Luật phù hợp với đối tượng, địa bàn, đặc điểm tổ chức và tình hình nhiệm vụ; bảo đảm hiệu quả, thiết thực. Trong quá trình thực hiện, nếu cần sự trợ giúp, hướng dẫn về nội dung tuyên truyền, đề nghị phản ánh về Thanh tra Chính phủ (qua Vụ Pháp chế)./.

 


Nơi nhận:
- Như trên;
- Tổng TTCP (để b/c);
- Các Phó Tổng TTCP (để b/c);
- Thanh tra các bộ, ngành;
- Thanh tra các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Lưu: VT, PC.

KT. TỔNG THANH TRA
PHÓ TỔNG THANH TRA




Nguyễn Văn Thanh

 

GIỚI THIỆU LUẬT TỐ CÁO NĂM 2018

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT TỐ CÁO 2018

1. Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật tố cáo 2011

Trong những năm qua, Luật tố cáo 2011 đã tạo hành lang pháp lý để công dân thực hiện quyền tố cáo; giúp các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kịp thời phát hiện, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật (VPPL) của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và các hành vi VPPL của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực quản lý nhà nước (QLNN). Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, Luật tố cáo 2011 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập sau:

Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết tố cáo: Luật tố cáo 2011 chưa quy định nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các trường hợp như: tố cáo hành vi VPPL trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong thời gian đương nhiệm, nay họ đã chuyển công tác đến cơ quan, tổ chức khác hoặc họ không còn là cán bộ, công chức, viên chức; tcáo hành vi VPPL của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ xảy ra trong thời gian cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi họ công tác chưa bị hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể; tố cáo cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ...Luật tố cáo 2011 cũng chưa quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo của các cơ quan như Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND), Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi VPPL trong thực hiện nhiệm vụ của người có chức danh, chức vụ trong doanh nghiệp nhà nước.

Thứ hai, về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo: Luật tố cáo 2011 quy định thiếu chặt chẽ hoặc chưa cụ thể trong việc xử lý đối với một số tình huống như: tiếp nhận, xử lý ban đầu thông tin tố cáo; người tố cáo rút đơn tcáo; tạm dừng, đình chỉ việc giải quyết tố cáo; tố cáo tiếp và giải quyết tố cáo tiếp...

Thứ ba, về tổ chức thi hành kết luận nội dung t cáo: Luật tố cáo 2011 chưa quy định rõ vấn đề này dẫn đến tình trạng nhiều kết luận, quyết định xử lý đối với người có hành vi VPPL bị tố cáo đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm minh, nhất là việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức; xử lý sai phạm về kinh tế... gây ra bức xúc cho người dân và xã hội.

Thứ tư, về bảo vệ người t cáo: Luật tố cáo 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có quy định về các biện pháp bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, các quy định này khó thực hiện, chưa tạo nên cơ chế pháp lý để bảo vệ người tố cáo một cách hiệu quả và thực chất. Do vậy, cần có các quy định cụ thể, chi tiết nhằm bảo vệ kịp thời, hiệu quả người tố cáo và người thân thích của họ.

Những hạn chế, bất cập của Luật tố cáo 2011 làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo và trật tự, kỷ cương pháp luật. Luật tố cáo 2018 hướng đến khắc phục những hạn chế, bất cập đó.

2. Nhằm cụ thể hóa quy định về quyền con người trong Hiến pháp 2013 và phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan

Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Hiến pháp năm 2013 đã có điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 khi quy định quyền tố cáo là quyền con người mà không chỉ là quyền công dân và đề cao vấn đề thực thi quyền con người, quyền công dân...Do đó, Luật tố cáo sửa đổi nhằm thể hiện rõ hơn tinh thần của Hiến pháp 2013 về quyền tố cáo với góc độ là quyền con người; quy định cụ thể hơn việc bảo vệ người tố cáo, trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo và công khai, minh bạch trong hoạt động này...Mặt khác, những thay đổi về quy trình tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo tội phạm tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015 hay quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn xử phạt vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012...cũng liên quan đến việc xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn giải quyết tố cáo. Điều đó đặt ra yêu cầu xây dựng Luật tố cáo mới, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan.

3. Nhằm quán triệt sự chỉ đạo của Đảng về tăng cường công tác đấu tranh PCTN, giải quyết khiếu nại, tố cáo

Việc xây dựng Luật tố cáo 2018 cũng là thực hiện các chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh công tác PCTN và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, cụ thể: Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 15/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng đã đặt ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng: “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật tcáo, bảo đảm các tố cáo về tham nhũng phải được giải quyết kịp thời, tránh tình trạng đùn đẩy, bao che, không giải quyết hoặc giải quyết không đúng quy định pháp luật”. Chỉ thị cũng nhấn mạnh: “Nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý tham nhũng thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, giải quyết tố cáo, xử lý tố giác, tin báo tội phạm...”; “Bảo vệ, khen thưởng xứng đáng người dũng cảm tố cáo hành vi tham nhũng; đồng thời xử lý nghiêm mọi hành vi trù dập, trả thù người tố cáo tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để gây mất đoàn kết nội bộ, vu khống, hãm hại người khác”. Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 26/5/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng đưa ra giải pháp: “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo hướng nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan thanh tra; của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, của HĐND, đại biểu HĐND trong việc thực hiện chức năng giám sát; của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo”.

II. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LUẬT TỐ CÁO 2018

Luật tố cáo 2018 được xây dựng dựa trên quan điểm và nguyên tắc sau:

1. Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về giải quyết tố cáo, cải cách nền hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

2. Nội dung và phạm vi điều chỉnh hợp lý; tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền tố cáo; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo; quy định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết các loại tố cáo; có cơ chế hữu hiệu bảo vệ người tố cáo; đồng thời xử lý nghiêm minh đối với các hành vi VPPL về tố cáo.

3. Bảo đảm phù hợp với Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan; bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tính khả thi.

4. Dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa những nội dung còn phù hợp của Luật tố cáo 2011; bổ sung nội dung mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

III. BỐ CỤC CỦA LUẬT TỐ CÁO 2018

Luật tố cáo 2018 bao gồm 09 chương với 67 điều, trong đó:

Chương I: Những quy định chung, gồm 08 điều, từ Điều 01 đến Điều 08. Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; áp dụng pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo; nguyên tắc giải quyết tố cáo; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo; trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc giải quyết tố cáo, chấp hành quyết định xử lý hành vi VPPL bị tố cáo; các hành vi bị nghiêm cấm trong tố cáo và giải quyết tố cáo.

[...]