BỘ
TÀI CHÍNH
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 13410/BTC-CST
V/v thực hiện thu phí, lệ phí thú y và điều
chỉnh thuế nhập khẩu ngô, lúa mì theo Thông báo số 192/TB-VPCP
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 10 năm 2011
|
Kính
gửi: Văn phòng Chính phủ
Ngày 18/8/2011, Văn phòng Chính phủ
có Thông báo số 192/TB-VPCP thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
tại cuộc họp bàn biện pháp đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cung ứng thực phẩm, bình ổn
giá cả thị trường.
Tại điểm b khoản 2
Thông báo số 192/TB-VPCP có nêu: “Bộ Tài chính xem xét việc tiếp tục thực
hiện thu phí, lệ phí trong lĩnh vực thú y, góp phần kiểm soát dịch bệnh, bảo đảm
an toàn thực phẩm; xem xét việc miễn giảm thuế nhập khẩu đối với ngô, lúa mì
chuyên dùng sản xuất thức ăn chăn nuôi”.
Bộ Tài chính xin báo cáo về vấn đề
này như sau:
I. Về việc tiếp tục thực hiện
thu phí, lệ phí trong lĩnh vực thú y, góp phần kiểm soát dịch bệnh, bảo đảm an
toàn thực phẩm
Phí, lệ phí trong công tác thú y được
quy định tại Thông tư số 136/2010/TT-BTC ngày 13/9/2010 của Bộ Tài chính hướng
dẫn chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí, lệ phí trong công tác thú y với hiệu
lực thi hành kể từ ngày 28/10/2010 (thay thế Quyết định số 08/2005/QĐ-BTC
ngày 20/01/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chế độ thu, nộp, quản lý, sử
dụng phí, lệ phí trong công tác thú y và Quyết định số 20/2006/QĐ-BTC ngày
31/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính sửa đổi Quyết định số 08/2005/QĐ-BTC ngày
20/01/2005).
Để góp phần bình ổn giá, Bộ Tài
chính đã ban hành Thông tư số 196/2010/TT-BTC quy định tạm hoãn thời gian thực
hiện Thông tư số 136/2010/TT-BTC ngày 13/9/2010 kể từ ngày 10/12/2010 đến hết
quý II năm 2011. Trong thời gian này, việc thu, nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ
phí trong công tác thú y được tiếp tục thực hiện theo Quyết định số
08/2005/QĐ-BTC ngày 20/01/2005 và Quyết định số 20/2006/QĐ-BTC ngày 31/3/2006
nêu trên.
Như vậy, kể từ ngày 1/7/2011 trở đi
(hết quý II năm 2011), việc thu, nộp và quản lý sử dụng phí, lệ phí
trong công tác thú y đã được thực hiện theo Thông tư số 136/2010/TT-BTC ngày
13/9/2010 của Bộ Tài chính.
II. Về việc xem xét việc miễn giảm
thuế nhập khẩu đối với ngô, lúa mì chuyên dùng sản xuất thức ăn chăn nuôi
1. Tình hình sản xuất, nhập
khẩu và nhu cầu sử dụng mặt hàng ngô và lúa mì làm thức ăn chăn nuôi trong nước
- Đối với mặt hàng ngô:
+ Theo Cục Trồng trọt - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, trong thời gian hơn 10 năm qua, sản xuất ngô
liên tục tăng về diện tích, năng suất, sản lượng. Năm 2011 tổng diện tích ngô
là 730.000 ha, đến năm 2005 đã tăng trên 1 triệu ha; năm 2010, diện tích ngô cả
nước 1.126,9 nghìn ha, năng suất 40,9 tạ/ha, sản lượng trên 4,6 triệu tấn. Tuy nhiên,
hàng năm nước ta vẫn phải nhập khẩu trên dưới 1 triệu tấn ngô hạt để làm thức
ăn chăn nuôi. Riêng năm 2010, đã nhập khẩu 1,05 triệu tấn ngô. Trong 7 tháng đầu
năm 2011 nhập khoảng 800 nghìn tấn ngô.
+ Theo số liệu của Tổng cục Hải
quan thì kim ngạch xuất khẩu ngô (nhóm 10.05) như sau:
Năm 2010: Xuất khẩu 0,699 triệu
USD, nhập khẩu 424 triệu USD.
8 tháng 2011: Xuất khẩu 1,527 triệu
USD, nhập khẩu 205,9 triệu USD.
- Đối với mặt hàng lúa mì:
+ Theo Cục trồng trọt - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2010, nhập khẩu 1,35 triệu tấn lúa mì để chế
biến thức ăn chăn nuôi, trong 7 tháng đầu năm 2011 nhập 900 nghìn tấn lúa mì
dùng làm thức ăn chăn nuôi.
+ Theo số liệu của Tổng cục Hải
quan thì kim ngạch xuất khẩu lúa mì (nhóm 10.01 và 10.04) như sau:
Năm 2010: Nhập khẩu 568,89 triệu
USD.
8 tháng 2011: Nhập khẩu 544,9 triệu
USD.
- Theo Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg
ngày 16/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển
chăn nuôi đến năm 2020, lượng thức ăn tinh cần thiết cho đàn gia súc, gia cầm
năm 2011 là 20,8 triệu tấn. Hiện nay số lượng nguyên liệu trong nước chỉ mới
đáp ứng được khoảng 75% so với nhu cầu, số còn lại phải nhập khẩu (khoảng
6-7 triệu tấn/năm).
- Hiện nay, ngoài vấn đề dịch bệnh,
ngành chăn nuôi còn phải đối mặt với giá nguyên liệu thức ăn ở mức cao. Chính
vì thế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề nghị Chính phủ ban hành
chính sách ưu đãi thuế suất thuế nhập khẩu đối với hầu hết các loại nguyên liệu
thức ăn chăn nuôi mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ so với
nhu cầu, trong đó có hạt lúa mì (trong nước hoàn toàn chưa sản xuất được)
và ngô (trong nước sản xuất còn thiếu) đang được sử dụng phổ biến để sản
xuất thức ăn chăn nuôi. Theo Cục chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, qua khảo sát thực tế và công tác chỉ đạo sản xuất, hiện nay các doanh
nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi đã đặt cọc và hợp đồng với các cơ sở thu gom,
sơ chế ngô thu mua toàn bộ số lượng ngô của các vùng sản xuất ngô chủ yếu của
nước ta nên việc giảm thuế suất thuế nhập khẩu của hai loại nguyên liệu nêu
trên không có ảnh hưởng đến vấn đề thu mua, tiêu thụ ngô sản xuất trong nước.
2. Chính sách thuế suất thuế
nhập khẩu đối với mặt hàng ngô, lúa mì
Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi,
cam kết WTO, khung thuế suất của mặt hàng ngô, lúa mì hiện nay như sau:
a) Lúa mì (thuộc nhóm 1001 và
1104):
- Lúa mì thuộc nhóm 1001: Thuế suất
thuế nhập khẩu ưu đãi 5%, cam kết WTO năm 2011 là 5%, khung thuế suất do Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định là 0-5%.
- Lúa mì thuộc nhóm 1104: Thuế suất
thuế nhập khẩu ưu đãi 5%, cam kết WTO năm 2011 là 5%, khung thuế suất Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định là 5-20%.
b) Ngô (thuộc nhóm 1005): Thuế
suất nhập khẩu ưu đãi 5%, cam kết WTO năm 2011 là 20%, khung thuế suất Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định là 0-30%.
3. Ý kiến của Bộ Tài chính
Căn cứ theo cam kết WTO, khung thuế
suất của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với mặt hàng ngô và lúa mì thì có thể
xem xét giảm thuế nhập khẩu ngô và mặt hàng lúa mì thuộc nhóm 10.01, nhưng không
thể điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu ưu đãi mặt hàng lúa mì ở nhóm 11.04 thấp hơn
5% do mức sàn của khung thuế suất đối với mặt hàng này là 5%.
Theo Bộ Tài chính được biết ngô chiếm
tỷ trọng khoảng 40%, lúa mì chiếm khoảng 20% trong cơ cấu giá thành sản xuất 1
tấn thức ăn chăn nuôi. Để xác định tác động của việc giảm thuế hoặc không giảm
thuế nhập khẩu mặt hàng ngô và lúa mì, Bộ Tài chính tính toán phương án giảm
thuế suất xuống 0% so với mức 5% hiện hành như sau:
a) Đối với mặt hàng ngô
- Giá ngô giao tại cảng Hải Phòng (Giá
CIF hoặc CNF) là: 325 USD/tấn, tương đương 6.825.000 đồng/tấn (tính theo
tỷ giá 21.000VNĐ/USD).
- Với mức thuế suất nhập khẩu hiện
hành đối với ngô là 5%, thì mức thuế nhập khẩu phải nộp cho 1 tấn ngô là
341.250 đồng/tấn.
- Nếu điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu
từ 5% xuống 0% thì chênh lệch thuế nhập khẩu của 01 tấn ngô là: 341.250 đồng/tấn.
- Ngô chiếm tỷ trọng 40% trong cơ cấu
giá thành sản xuất của 1 tấn thức ăn chăn nuôi, nên thuế nhập khẩu giảm tương ứng
với tỷ lệ 40% là: 136.500 đồng/tấn (341.250 đồng x 40% = 136.500 đồng/tấn).
- Theo thông tin của Cục Quản lý
giá (công văn 221/CQLG-THPTDB ngày 5/9/2011) giá thức ăn chăn nuôi trong
nước tại thời điểm tháng 8/2011 khoảng 11.000.000 đồng/tấn, do vậy, nếu thực hiện
điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu ngô từ 5% xuống 0% thì giá thành phẩm thức ăn
chăn nuôi giảm 136.500 đồng/tấn, tương đương với 1,24% giá bán.
Ngô là mặt hàng nông sản mà trong
nước có sản xuất mặc dù trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu nhưng nếu giảm thuế
suất của mặt hàng này xuống 0% thì sẽ tác động bất lợi, không khuyến khích người
dân phát triển trồng loại cây này và lâu dài sẽ càng phụ thuộc vào ngô nhập khẩu.
Theo số liệu kim ngạch nhập khẩu tháng 7/2011 của TCHQ thì mặt hàng “ngô” được
nhập khẩu chủ yếu từ các nước sau:
Stt
|
Nước
|
Số
lượng (tấn)
|
Kim
ngạch nhập khẩu
|
Trị
giá (USD)
|
Tỷ
trọng/Tổng số
|
1
|
Achentina
|
1.442
|
729.046
|
0,23%
|
2
|
Ấn Độ
|
366.264
|
103.429.319
|
58%
|
3
|
Braxin
|
129.794
|
40.229.039
|
20%
|
4
|
Campuchia
|
16.050
|
5.737.000
|
2,5%
|
5
|
Hoa Kỳ
|
2.452
|
1.353.266
|
0,4%
|
6
|
Lào
|
6.916
|
1.933.070
|
1,1%
|
7
|
Thái Lan
|
112.141
|
51.426.048
|
17,7%
|
|
Tổng cộng
|
635.059
|
204.836.788
|
100%
|
Như vậy, mặt hàng ngô nhập khẩu ngoài
một số nước áp dụng mức thuế nhập khẩu ưu đãi (5%), còn được nhập khẩu từ một số
nước áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt như: Ấn Độ (kim ngạch
nhập khẩu 58%) có mức thuế suất thuế nhập khẩu năm 2011 là 4,5% và năm 2012
là 4%; Campuchia, Lào và Thái Lan (kim ngạch nhập khẩu 21,3%) có mức thuế
suất thuế nhập khẩu từ năm 2011 - 2013 là 0%.
b) Đối với mặt hàng lúa mì
- Giá lúa mì giao tại cảng Hải
Phòng (Giá CIF hoặc CNF) là: 310 USD/tấn tương đương 6.510.000 đồng/tấn
(tính theo tỷ giá 21.000VNĐ/USD).
- Với mức thuế suất nhập khẩu hiện
hành đối với lúa mì là 5%, thì mức thuế nhập khẩu phải nộp cho 1 tấn lúa mì là
325.500 đồng/tấn.
- Nếu điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu
từ 5% xuống 0% thì chênh lệch thuế nhập khẩu của 01 tấn lúa mì là: 325.500 đ/tấn.
- Lúa mì chiếm tỷ trọng 20% trong
cơ cấu giá thành sản xuất 1 tấn thức ăn chăn nuôi, nên thuế nhập khẩu giảm
tương ứng với tỷ lệ 20% là: 65.100 đồng/tấn (325.500 đ x 20% = 65.100 đồng/tấn).
- Tương tự như mặt hàng ngô, 01 tấn
thức ăn chăn nuôi tổng hợp có giá 11.000.000 đồng/tấn. Do vậy, nếu thực hiện điều
chỉnh giảm thuế nhập khẩu lúa mì từ 5% xuống 0% thì giá thành phẩm thức ăn chăn
nuôi giảm được 65.100 đồng/tấn, tương đương với 0,6% giá bán.
Lúa mì là mặt hàng nông sản trong
nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu hoàn toàn, việc giảm thuế suất thuế nhập
khẩu mặt hàng này xuống 0% sẽ góp phần giảm chi phí đầu vào cho ngành sản xuất
thức ăn chăn nuôi. Theo số liệu kim ngạch nhập khẩu tháng 7/2011 của TCHQ thì mặt
hàng “Lúa mì” được nhập khẩu chủ yếu từ các nước sau:
Stt
|
Nước
|
Số
lượng (tấn)
|
Kim
ngạch nhập khẩu
|
Trị
giá (USD)
|
Tỷ
trọng/Tổng số
|
1
|
Canada
|
12.907
|
5.675.706
|
1%
|
2
|
Hoa Kỳ
|
164.248
|
64.140.937
|
11%
|
3
|
Ôtrâylia
|
1.301.028
|
435.448.380
|
88%
|
|
Tổng cộng
|
1.478.183
|
505.265.023
|
100%
|
Trong đó, mặt hàng lúa mì nhập khẩu
từ Canada và Hoa Kỳ áp dụng mức thuế nhập khẩu ưu đãi (5%), nhập khẩu từ Ôtrâylia
áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt là 5%. Như vậy, nếu giảm
thuế nhập khẩu ưu đãi thì giảm đối với Canada và Hoa Kỳ, không điều chỉnh giảm
thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với Ôtrâylia.
Từ kết quả tính toán và tình hình
nhập khẩu mặt hàng ngô và lúa mì nêu trên cho thấy: Việc giảm thuế nhập khẩu của
ngô và lúa mì từ 5% xuống 0% thì việc giảm giá bán thức ăn chăn nuôi là không
đáng kể (ngô được khoảng 1,24% giá bán; lúa mì được khoảng 0,6% giá bán).
Mặt khác, nếu giảm thuế nhập khẩu lúa mì thì cũng chỉ giảm được ở nhóm 10.01 (nhóm
10.04 không giảm được vì khung thuế suất do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
đối với nhóm này là 5-20%), nguồn nhập khẩu từ nhiều nước khác nhau (áp
dụng cả Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi và Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt)
nên trên thực tế tác động của việc giảm thuế nhập khẩu lúa mì đến giá thành sản
xuất thức ăn chăn nuôi sẽ còn ít hơn số tính toán ở trên. Ngoài ra, nếu giảm mức
thuế nhập khẩu ưu đãi của lúa mì nhóm 10.01 xuống thấp hơn 5% thì có chênh lệch
thuế suất với lúa mì nhóm 10.04 sẽ gây ra phát sinh gian lận và vướng mắc trong
thực hiện do không có tiêu chí rõ ràng để phân biệt lúa mì giữa hai nhóm này.
Từ nội dung báo cáo nêu trên, Bộ
Tài chính đề nghị vẫn giữ nguyên mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với
ngô và lúa mì như hiện hành. Để hạ giá thành sản xuất thức ăn chăn nuôi thì cần
tính đến biện pháp khác như khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ sử dụng
nguyên liệu sản xuất thức ăn trong nước, tăng cường kiểm tra rà soát giá, ưu đãi
tín dụng hoặc ân hạn nộp thuế… Về lâu dài cần quy hoạch phát triển toàn diện
các nguồn nguyên liệu thô, mở rộng diện tích các loại cây nguyên liệu chế biến
thức ăn chăn nuôi, sử dụng giống mới và áp dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng năng
suất ngô, đậu tương, đưa cỏ thành cây trồng có giá trị trong cơ cấu nguyên liệu
thức ăn chăn nuôi.
Bộ Tài chính xin báo cáo về việc tiếp
tục thực hiện thu phí, lệ phí trong lĩnh vực thú y và xem xét việc miễn giảm
thuế nhập khẩu đối với ngô, lúa mì chuyên dùng sản xuất thức ăn chăn nuôi theo
Thông báo số 192/TB-VPCP, kính đề nghị Văn phòng Chính phủ tổng hợp, báo cáo Thủ
tướng Chính phủ.
Trân trọng sự phối hợp công tác của
quý cơ quan./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ Nông nghiệp và PTNT;
- Bộ Công Thương;
- TCHQ, Vụ PC;
- Lưu: VT, CST (PXNK).
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đỗ Hoàng Anh Tuấn
|