Công văn 12751/BGTVT-KHĐT năm 2021 về hoàn thiện phương án bố trí vốn các dự án giao thông trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội do Bộ Giao thông vận tải ban hành
Số hiệu | 12751/BGTVT-KHĐT |
Ngày ban hành | 30/11/2021 |
Ngày có hiệu lực | 30/11/2021 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Giao thông vận tải |
Người ký | Nguyễn Ngọc Đông |
Lĩnh vực | Đầu tư,Thương mại,Giao thông - Vận tải |
BỘ GIAO THÔNG VẬN
TẢI |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 12751/BGTVT-KHĐT |
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2021 |
Kính gửi: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Thực hiện chỉ đạo, kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ ngày 29/11/2021 về việc hoàn thiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), trên cơ sở tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tại cuộc làm việc với Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội về chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH (Thông báo số 529/TB-TTKQH ngày 27/11/2021), Bộ Giao thông vận tải (GTVT) báo cáo bổ sung, hoàn thiện lại phương án bố trí vốn các dự án giao thông trong Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH như sau:
Theo Báo cáo của Chính phủ và Kết luận của Chủ tịch Quốc hội, Bộ GTVT có 06 dự án sử dụng nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH:
(1) Cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021- 2025:
Đã trình Quốc hội báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (BCNCTKT) để thông qua tại Kỳ họp tháng 12/2021 của Quốc hội Khóa XV; tổng mức đầu tư (TMĐT) 146.990 tỷ đồng; phần vốn ngân sách đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã bố trí là 47.168,6 tỷ đồng.
Tiến độ dự kiến: hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi (BCNCKT) năm 2022; GPMB đạt 90% vào cuối năm 2023 và 100% vào quý I năm 2024; lựa chọn nhà thầu và khởi công cuối năm 2023, cơ bản hoàn thành vào cuối năm 2025.
(2) Cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu:
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chủ trương đầu tư theo phương thức PPP, hiện nay đang lập BCNCKT. Dự án dự kiến chuyển sang phương thức đầu tư công và sẽ phát sinh tiêu chí dự án quan trọng quốc gia (sử dụng vốn ngân sách nhà nước trên 10.000 tỷ đồng); dự kiến TMĐT theo phương thức đầu tư công là 18.635 tỷ đồng; phần vốn ngân sách đầu tư công trung hạn 2021-2025 đã bố trí là 5.740 tỷ đồng.
Tiến độ dự kiến: cập nhật để trình Quốc hội BCNCTKT vào kỳ họp tháng 05/2022 của Quốc hội; hoàn thành BCNCKT năm 2022; GPMB đạt 90% vào cuối năm 2023 và 100% vào quý I năm 2024; lựa chọn nhà thầu và khởi công cuối năm 2023, hoàn thành vào cuối năm 2025.
(3) Cao tốc An Hữu - Cao Lãnh:
Đã hoàn chỉnh BCNCTKT theo phương thức PPP. Dự án dự kiến chuyển sang phương thức đầu tư công; TMĐT 6.054 tỷ đồng; phần vốn ngân sách đầu tư công trung hạn 2021-2025 đã bố trí là 1.864 tỷ đồng.
Tiến độ dự kiến: cập nhật BCNCTKT trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngay sau khi có Nghị quyết của Quốc hội thông qua Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH (tháng 01/2022); hoàn thành BCNCKT năm 2022; GPMB đạt 90% vào cuối năm 2023 và 100% vào quý I năm 2024; lựa chọn nhà thầu và khởi công cuối năm 2023, hoàn thành vào cuối năm 2025.
(4) Cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng:
Đã hoàn chỉnh BCNCTKT theo phương thức PPP và đã trình Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng thẩm định Nhà nước đang thẩm định. Dự án dự kiến chuyển sang phương thức đầu tư công; TMĐT 49.745 tỷ đồng; phần vốn ngân sách đầu tư công trung hạn 2021-2025 đã bố trí là 14.247 tỷ đồng.
Tiến độ dự kiến: sau khi có Nghị quyết của Quốc hội thông qua Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH, sẽ cập nhật BCNCTKT trình Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư vào Kỳ họp tháng 5/2022; hoàn thành BCNCKT vào quý I/2023; GPMB đạt 90% vào quý I/2024 và 100% vào quý III năm 2024; lựa chọn nhà thầu và khởi công đầu năm 2024, cơ bản hoàn thành một số đoạn cấp bách vào cuối năm 2025 do khu vực này có địa chất yếu (thời gian chờ lún cần tối thiểu 12 tháng) và vật liệu xây dựng khan hiếm.
(5) Cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột:
Đã hoàn chỉnh BCNCTKT theo phương thức đầu tư công, Bộ GTVT đang triển khai thủ tục thẩm định nội bộ; TMĐT 17.435 tỷ đồng; phần vốn ngân sách đầu tư công trung hạn 2021-2025 đã bố trí là 5.230,5 tỷ đồng.
Tiến độ dự kiến: sau khi có Nghị quyết của Quốc hội thông qua Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH, sẽ cập nhật BCNCTKT trình Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư vào Kỳ họp tháng 5/2022; hoàn thành BCNCKT vào quý I/2023; GPMB đạt 90% vào quý I/2024 và 100% vào quý III năm 2024; lựa chọn nhà thầu và khởi công đầu năm 2024, cơ bản hoàn thành các đoạn cấp bách vào cuối năm 2025 do khu vực này có địa hình đồi núi phức tạp, có một số vị trí hầm lớn.
(6) Cầu Đại Ngãi:
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chủ trương đầu tư bằng nguồn vốn ODA dự kiến vay JICA, tuy nhiên nhà tài trợ chưa cam kết bố trí vốn và mới chỉ chấp thuận hỗ trợ kỹ thuật để lập BCNCKT. Dự án dự kiến chuyển sang phương thức đầu tư công bằng nguồn vốn ngân sách trong nước; TMĐT 8.041 tỷ đồng; phần vốn ngân sách đầu tư công trung hạn 2021-2025 đã cân đối là 2.412 tỷ đồng.
Tiến độ dự kiến: trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư ngay sau khi có Nghị quyết của Quốc hội thông qua Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH (tháng 01/2022); hoàn thành BCNCKT năm 2022; GPMB đạt 90% vào cuối năm 2023 và 100% vào quý I năm 2024; lựa chọn nhà thầu và khởi công cuối năm 2023, cơ bản hoàn thành cuối năm 2025.
2. Về dự kiến nhu cầu sử dụng vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH
2.1. Nguyên tắc dự kiến nhu cầu
- Căn cứ tiến độ tổ chức thực hiện, đặc thù của từng dự án về quy mô, tính chất kỹ thuật, công tác GPMB; trình tự thủ tục yêu cầu, điều kiện địa chất, khả năng cung ứng vật liệu xây dựng.
- Nhu cầu vốn xây dựng dựa trên tổng mức đầu tư bước dự án khả thi.
- Đảm bảo điều hành linh hoạt giữa nguồn vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn với nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH, xây dựng phương án phân bổ vốn hợp lý như chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội tại thông báo số 530/TB-TTKQH ngày 27/11/2021.
- Tham khảo tiến độ, khả năng giải ngân và ước tính nhu cầu vốn các dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 1 (TMĐT giảm so với BCNCTKT khoảng 13,8%) trên cơ sở ý kiến của Kiểm toán Nhà nước và ý kiến của Ủy ban Tài chính Ngân sách tại buổi làm việc ngày 26 tháng 11 năm 20211.