Thứ 7, Ngày 16/11/2024

Công ước 95 năm 1949 về bảo vệ tiền lương

Số hiệu 95
Ngày ban hành 01/07/1949
Ngày có hiệu lực
Loại văn bản Điều ước quốc tế
Cơ quan ban hành ***
Người ký ***
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

CÔNG ƯỚC SỐ 95

CÔNG ƯỚC

VỀ BẢO VỆ TIỀN LƯƠNG, 1949

Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế,

Được Hội đồng quản trị của Văn phòng lao động quốc tế triệu tập tại Giơ-ne-vơ ngày 8 tháng 6 năm 1949, trong kỳ họp thứ ba mươi hai, và,

Sau khi đã chấp thuận một số đề nghị về việc bảo vệ tiền lương, là vấn đề thuộc điểm thứ bảy trong chương trình nghị sự kỳ họp, và

Sau khi đã quyết định rằng những đề nghị đó sẽ mang hình thức một Công ước quốc tế,

Thông qua, ngày 01 tháng 7 năm 1949, Công ước dưới đây, gọi là Công ước về Bảo vệ tiền lương, 1949.

Điều 1

Trong Công ước này, thuật ngữ “tiền lương” là sự trả cônng hoặc thu nhập, bất kể tên gọi hay cách tính mà có thể biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc bằng pháp luật quốc gia, do người sử dụng lao động phải trả cho người lao động theo một hợp đồng thuê mướn lao động, bằng viết hoặc bằng miệng, cho một công việc đã thực hiện hoặc sẽ phải thực hiện, hoặc cho những dịch vụ đã làm hoặc sẽ phải làm.

Điều 2

1. Công ước này áp dụng cho tất cả những người được trả hoặc phải được trả tiền lương.

2. Cơ quan có thẩm quyền, sau khi tham khảo ý kiến các tổ chức trực tiếp hữu quan, nếu có, của người sử dụng lao động và của người lao động, có thể loại ra khỏi việc áp dụng toàn bộ hay một số quy định của Công ước này những nhóm người mà hoàn cảnh và điều kiện làm việc khiến việc áp dụng toàn bộ hay một số những quy định đó là không thích hợp, đồng thời họ không lao động chân tay hoặc làm những dịch vụ gia nhân hay những việc tương tự.

3. Mỗi Nước thành viên phải ghi rõ trong báo cáo hàng năm đầu tiên theo Điều 22 của Điều lệ Tổ chức Lao động quốc tế, nhóm người mà mình dự định loại ra khỏi việc áp dụng toàn bộ hoặc một phần những quy định của Công ước theo khoản trên.

Sau đó, không một Nước thành viên nào được tiến hành những việc loại trừ như vậy nữa, trừ phi đối với những nhóm người đã ghi rõ trước.

4. Nước thành viên nào đã ghi rõ trong báo cáo hàng năm đầu tiên của mình những nhóm người mà mình dự định loại ra khỏi việc phải áp dụng toàn bộ hoặc một phần những quy định của Công ước này, phải chỉ rõ trong những báo cáo sau đó những nhóm người mà đối với họ, nước đó từ bỏ quyền sử dụng các quy định của Đoạn 2 Điều này, và chỉ rõ mọi bước tiến có thể đã đạt được thực hiện nhằm áp dụng Công ước này cho những nhóm người đó.

Điều 3

1. Các loại lương có thể trả bằng tiền chỉ được trả bằng loại tiền được lưu hành hợp pháp. Việc trả lương dưới hình thức kỳ phiếu, trái phiếu, tem phiếu hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác coi như thay cho tiền đang lưu hành hợp pháp đều bị cấm.

2. Cơ quan có thẩm quyền có thể cho phép hoặc quy định việc trả lương bằng séc thanh toán ở một ngân hàng hoặc bằng séc hay giấy chuyển tiền qua bưu điện, khi cách trả đó là cách trả thông thường hoặc là cần thiết do những hoàn cảnh đặc biệt, hoặc khi một thoả ước tập thể hay một phán quyết của trọng tài đã dự kiến việc đó, hoặc nếu không thì do người lao động đã đồng ý như vậy.

Điều 4

1. Pháp luật hoặc quy định quốc gia, các thoả ước tập thể hoặc các phán quyết của trọng có thể cho phép việc trả lương một phần bằng hiện vật trong các ngành công nghiệp hoặc những nghề nghiệp mà cách trả đó là cách trả thông thường hay đáng có, do tính chất của ngành công nghiệp, hoặc của nghề nghiệp hữu quan. Việc trả lương bằng rượu mạnh hoặc bằng những loại ma tuý độc hại đều không được chấp nhận trong bất cứ hoàn cảnh nào.

2. Trong các trường hợp được phép trả một phần lương, một phần bằng hiện vật thì phải có những biện pháp thích hợp để bảo đảm rằng:

a) Các cung ứng bằng hiện vật phù hợp với việc sử dụng riêng và với lợi ích của người lao động và gia đình họ;

b) Trị giá của các cung ứng đó phải công bằng và hợp lý.

Điều 5

Tiền lương phải được trả trực tiếp cho người lao động, trừ phi pháp luật hoặc quy định quốc gia, một thoả ước tập thể hay một phán quyết của trọng tài có quy định khác, hoặc người lao động chấp nhận một cách trả khác.

Điều 6

Cấm người sử dụng lao động hạn chế bằng bất cứ cách nào quyền tự do của người lao động để sử dụng tiền lương của mình.

Điều 7

1. Khi lập ra trong phạm vi doanh nghiệp những kho tiếp tế để bán hàng hoá cho người lao động hoặc các dịch vụ nhằm cung ứng hiện vật cho người lao động, thi không được cưỡng ép những người lao động hữu quan để buộc họ phải sử dụng các kho tiếp tế hoặc các dịch vụ đó.

[...]