HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 65-HĐBT
|
Hà Nội, ngày 12
tháng 6 năm 1989
|
CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỐI VỚI
CÁC TỈNH MIỀN NÚI BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
Để tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của
Trung ương (khoá VI) nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu của việc phát triển kinh
tế xã hội các tỉnh miền núi biên giới phía Bắc trong tình hình mới, Hội đồng Bộ
trưởng chỉ thị giải quyết một số vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội đối với
các tỉnh miền núi biên giới phía Bắc (kể cả vùng hải đảo của tỉnh Quảng Ninh)
như sau:
1. Về lương thực.
Các tỉnh miền núi cần tận lực
phát triển sản xuất lương thực tại chỗ trên cơ sở tính toán kỹ hiệu quả, đồng
thời thông qua trao đổi hàng hoá, kể cả xuất, nhập khẩu để có đủ lương thực. Giải
quyết tốt các biện pháp tập trung thâm canh, tăng vụ trên các diện tích lúa và
mầu hiện có, chú trọng đưa ngô xuống ruộng, phát triển diện tích mì, mạch,
khoai tây vụ đông. Khuyến khích xây dựng ruộng bậc thang, nương định canh.
Nghiêm cấm việc phá rừng làm nương, rẫy...
- Nhà nước miễn thuế nông nghiệp
đối với các diện tích ruộng bậc thang, nương định canh ở vùng cao mới xây dựng
và trên diện tích tăng vụ, hoặc sản xuất theo phương thức nông - lâm kết hợp.
Giá bán phân bón giao cho các tỉnh
miền núi tại chân hàng cấp II ngang với giá giao tại Hà Nội; ngành vật tư nông
nghiệp giải quyết theo phương pháp lấy gần bù xa.
Giá bán thuốc trừ sâu được giảm
từ 20 đến 30% so với giá kinh doanh bình thường; trích quỹ dự trữ Nhà nước hàng
năm về thuốc trừ sâu để bù cho khoản chênh lệch này.
2. Về chăn nuôi.
- Khuyến khích phát triển nuôi
trâu, bò, dê, ngựa để sử dụng tại chỗ và bán cho các vùng khác. Phát triển việc
nuôi cá; phổ biến áp dụng rộng rãi phương thức VAC.
- Khuyến khích lưu thông trâu,
bò. Khôi phục và phát triển các chợ mua bán trâu , bò; cho phép mọi người đều
được mua trâu, bò và các sản phẩm chăn nuôi đưa về bán ở miền xuôi.
- Khuyến khích xuất khẩu trâu,
bò và các sản phẩm chăn nuôi qua biên giới Trung Quốc để đổi máy móc, tư liệu sản
xuất hoặc hàng tiêu dùng thiết yếu.
3. Về cây công nghiệp, lâm nghiệp.
Rà soát lại quy hoạch, mở rộng
diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, cây thuốc có giá trị ở vùng
này. Chú trọng trồng và mở rộng rừng đầu nguồn, rừng gỗ trụ mỏ và gỗ nguyên liệu
giấy, bảo vệ và chăm sóc rừng hiện có, nhất là rừng đầu nguồn.
Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực
phẩm, Bộ Lâm nghiệp và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh trong quý III năm 1989 phải rà
soát lại quy hoạch của các nông trường, lâm trường, có kế hoạch sử dụng một
cách có hiệu quả diện tích đất và rừng được giao, giao lại các diện tích đất
chưa sử dụng hoặc sử dụng không có hiệu quả cho địa phương để sản xuất - kinh
doanh.
- Đình chỉ khai thác trong 15
năm rừng phòng hộ đầu nguồn. Bộ Lâm nghiệp quy hoạch ngay các vùng cụ thể để
các địa phương thực hiện,
- Đối với các sản phẩm nông, lâm
nghiệp dùng làm nguyên liệu (nguyên liệu giấy, chè v.v...) các đơn vị sản xuất
(kể cả tư nhân) được quyền bán thẳng cho cơ sở chế biến theo giá thoả thuận,
sau khi đã thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo luật định.
- Đối với diện tích cây công
nghiệp dài ngày, rừng gia dụng, rừng đặc sản được miễn thuế nông nghiệp trong
thời gian 3 năm kể từ năm đầu có thu hoạch sản phẩm.
- Để lại cho địa phương 100% tiền
nuôi rừng để xây dựng vốn rừng.
- Tập trung vốn ngân sách đầu tư
trồng rừng phòng hộ đầu nguồn; đối với rừng nguyên liệu giấy và gỗ trụ mỏ thì
dùng vốn tự có và vốn vay Ngân hàng với lãi suất ưu đãi để trồng.
- Ưu tiên dành phần lớn các
chương trình viện trợ của các tổ chức quốc tế như PAM, FAO cho các tỉnh miền
núi biên giới phát triển cây công nghiệp và trồng rừng.
4. Về công tác định canh, định
cư.
Trước hết, tập trung củng cố các
vùng đã hình thành cả về sản xuất và đời sống. Ngoài phần ngân sách cấp, được
vay vốn Ngân hàng với lãi suất ưu đãi để thực hiện công tác định canh, định cư
(bao gồm các điểm dân cư, giếng nước ăn, đường dân sinh, bệnh xá, trường học và
một số hệ thống thuỷ lợi, hồ đập nhỏ, v.v...) Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể
mức lãi suất này.
Miễn thu tiền nuôi rừng đối với
số gỗ và lâm sản đồng bào định canh, định cư khai thác rừng tự nhiên để làm
nhà, xây dựng trường học, bệnh xá. Bộ Lâm nghiệp cùng chính quyền địa phương
quy định cụ thể quy trình khai thác và hướng dẫn khu vực khai thác nhằm bảo vệ
được rừng.
5. Về sản xuất công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp.
Uỷ ban Nhân dân các tỉnh và các
Bộ có liên quan khẩn trương sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, đổi mới từng phần
thiết bị, đối với các xí nghiệp quốc doanh trên địa bàn, nhằm tăng năng suất
lao động, tăng chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Đối với xí nghiệp quốc
doanh (kể cả trung ương và địa phương) bị thua lỗ kéo dài mà không có khả năng
khắc phục, thì chuyển cho tập thể, tư nhân quản lý hoặc giải thể.
- Các tổ chức, cá nhân lên miền
núi để phát triển tiểu thủ công nghiệp được Nhà nước miễn hoặc giảm thuế lợi tức
trong một thời gian đối với một số ngành nghề được khuyến khích. Bộ Tài chính
trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành các ngành nghề được miễn, giảm.
- Trong một số năm trước mắt,
Nhà nước có thể xem xét miễn, giảm thu quốc doanh (hoặc thuế doanh thu) và thuế
hàng hoá đối với một số sản phẩm như công cụ lao động, nước mắm, nước chấm, các
sản phẩm chế biến từ mầu, các loại đường mật, bánh kẹo, nước giải khát, các
hàng tiêu dùng bằng kim khí, sành sứ, gốm, thuỷ tinh, v.v...
Bộ Tài chính trình Hội đồng Bộ
trưởng danh mục các mặt hàng cụ thể được miễn hoặc giảm.
6. Về giao thông vận tải.
Khuyến khích các thành phần kinh
tế (kể cả cá thể, tư nhân) tham gia phát triển giao thông vận tải dưới mọi hình
thức.
- Cá thể, tư nhân bỏ vốn, mua sắm
phương tiện để kinh doanh vận tải trong phạm vi các tỉnh miền núi biên giới được
miễn thuế lợi tức từ 3 đến 5 năm, sau đó được hưởng mức thuế thấp nhất của biểu
thuế vận tải.
- Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước tăng
thêm vốn đầu tư để tu sửa tuyến đường sắt, nâng cấp các tuyến đường bộ quan trọng
v.v...
- Bộ Giao thông vận tải xem xét
và bàn với các tỉnh chuyên giao nhiệm vụ và phương tiện vận tải hành khách đường
dài bằng ô-tô cho các tỉnh quản lý, đồng thời trang bị thêm ô-tô vận tải cỡ nhỏ
cho các tỉnh.
7. Khuyến khích đưa tiến bộ kỹ
thuật và công nghệ mới vào sản xuất .
- Các cơ quan tổ chức nghiên cứu,
ứng dụng khoa học kỹ thuật cũng như cá nhân nhà khoa học tổ chức áp dụng tiến bộ
kỹ thuật vào sản xuất tại các tỉnh miền núi được hưởng một tỷ lệ thích đáng giá
trị lợi nhuận tăng lên. Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước cùng Bộ Tài chính
quy định cụ thể.
- Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật
Nhà nước cùng các Bộ liên quan khẩn trương xem xét sắp xếp và tổ chức lại các
cơ sở nghiên cứu và cơ sở chuyển giao kỹ thuật tại các tỉnh miền núi để thực hiện
sản xuất được thiết thực hơn.
8. Về đầu tư xây dựng cơ bản .
Nhà nước khuyến khích các thành
phần kinh tế trong nước và thu hút các công ty nước ngoài, các tổ chức quốc tế
tham gia đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi biên giới.
Năm 1989, ngoài phần vốn đã bố
trí tư đầu năm, Nhà nước sẽ đầu tư hỗ trợ thêm (bước đầu là 12 tỷ đồng) để xây
dựng một số công trình phù hợp với yêu cầu của tình hình mới như công trình cửa
khẩu, khôi phục cơ quan huyện, thị xã, tu sửa đường, cầu cống ra cửa khẩu, hỗ
trợ cho nhân dân trở về bản, làng cũ v.v... cần bố trí đủ vật tư, tiền vốn để
triển khai sớm việc xây dựng.
9. Về lưu thông hàng hoá.
Cho phép cá thể, tư nhân thu gom
các sản phẩm nông, lâm nghiệp (trừ một số hàng như gỗ quý, đặc sản, dược liệu...)
lưu thông trong vùng hoặc đưa về bán ở miền xuôi và đưa lên miền núi các loại
hàng hoá như muối ăn, nước mắm, v.v... Bộ Nội thương, Tài chính, Nông nghiệp và
Công nghiệp thực phẩm, Lâm nghiệp trình Hội đồng Bộ trưởng danh mục các hàng cấm
thành phần ngoài quốc doanh buôn bán và các quy định cụ thể vận dụng Luật thuế
cho các hoạt động này.
- Bộ Năng lượng, Bộ Tài chính, Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước và Uỷ ban vật giá Nhà nước tính toán mức giá bán than áp
dụng từ nay trở đi cho các xí nghiệp ở miền núi.
- Các tổ chức cung ứng sắt thép,
xăng dầu xi-măng, phân bón, muối ăn dầu thắp sáng và giấy viết thực hiện hạch
toán phí lưu thông theo các nguyên tắc lấy gần bù xa: giá giao cho các tỉnh miền
núi tại chân hàng cấp II ngang với giá giao tại Hà Nội.
- Xây dựng và tổ chức lại kinh
doanh ở các chợ, nhất là tổ chức thật tốt việc kinh doanh ở một số chợ chủ yếu ở
biên giới (Đồng Đăng, Lạng Sơn.. .)
10. Về xuất nhập khẩu.
- Khuyến khích các thành phần
kinh tế trên địa bàn và các nơi khác đến đầu tư phát triển sản xuất các mặt
hàng xuất khẩu dưới mọi hình thức như lập cơ sở sản xuất mới, liên doanh, hợp
tác sản xuất mới,v.v...
- Hàng xuất khẩu sang khu vực xã
hội chủ nghĩa được ưu tiên trả bằng hàng hoá nhập khẩu hoặc bằng tiền cao hơn
10% so với các khu vực khác với cùng mặt hàng.
- Các địa phương được sử dụng
toàn bộ số ngoại tệ do xuất khẩu thu được, không phải bán lại ngoại tệ cho
trung ương. Miễn thuế xuất khẩu cho các sản phẩm xuất khẩu được sản xuất trên địa
bàn.
- Được xuất khẩu tiểu ngạch qua
biên giới Trung Quốc các sản phẩm nông lâm sản thông thường, trừ các hàng cấm
mà Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định hoặc uỷ quyền các Bộ quy định.
- Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh
phải đặc biệt coi trọng chỉ đạo công tác thu thuế hàng nhập khẩu qua biên giới.
Các tỉnh được dùng số tiền thuế thu được để bổ sung cho ngân sách tỉnh.
- Các tỉnh biên giới trực tiếp
xuất nhập khẩu qua biên giới Trung Quốc thông qua các Công ty xuất nhập khẩu của
tỉnh hoặc của Trung ương liên doanh với tỉnh; được xuất thẳng qua Trung Quốc
các mặt hàng thấy có lợi hơn là đưa về Trung ương xuất, Bộ Kinh tế đối ngoại
cùng Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan sớm trình quy chế về xuất nhập khẩu, về
vận dụng Luật thuế và Hải quan đối với khu vực biên giới phía Bắc.
11. Về tài chính, tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước sớm quy định
chính sách ưu tiên cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi với thành phần tham gia phát
triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi biên giới. Trước hết đối với phát
triển lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày , cây đặc sản, chế biến nông sản,
lâm sản, sản xuất công cụ lao động, xây dựng các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện
nhỏ, giao thông vận tải,v.v...
- Để lại cho tỉnh 100% các khoản
thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn để bổ sung ngân sách địa phương.
- Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp
thực phẩm, Bộ Nội thương, Ngân hàng Nhà nước cùng với các tỉnh xác định cụ thể
và tạo điều kiện cho các ngành có dự trữ lưu thông tại các tỉnh một lượng cần
thiết về lương thực, muối, dầu hoả, giấy viết...
Uỷ ban Nhân dân các tỉnh nghiên
cứu vận dụng các quy định về miễn giảm các loại thuế đối với các tỉnh miền núi
biên giới phía Bắc cho sát hợp với từng vùng từng dân tộc.
- Căn cứ vào
điều kiện cụ thể của từng vùng từng dân tộc, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh đề nghị cụ
thể mức giảm giá hoặc cho không một số hàng hoá thiết yếu cho sản xuất, đời sống
và giáo dục (như phân bón, muối, giấy viết, sách giáo khoa). Bộ Tài chính cùng
các ngành có liên quan trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
Các xí nghiệp công nghiệp của quốc
doanh địa phương và trung ương đóng tại tỉnh miền núi biên giới phải hạch toán
đầy đủ giá thành sản phẩm. Nếu giá thành quá cao, Bộ Tài chính sẽ xem xét từng
trường hợp cụ thể để giảm thu quốc doanh hoặc lợi nhuận phải nộp ngân sách.
- Uỷ ban Nhân dân các tỉnh cần
tăng cường quản lý việc đào, đãi vàng trên địa bàn tỉnh bằng các biện pháp như
cấp giấy phép, thu thuế, v. v... nghiêm cấm việc đào, đãi vàng gây hại rừng, rửa
trôi đất màu.
12. Về văn hoá, giáo dục, y tế.
a) Về văn hoá, thông tin.
Xây dựng nếp sống văn hoá mới và
con người mới chống các hủ tục, mê tín, dị đoan, nghiện hút.
Phát huy truyền thống cách mạng,
luôn luôn đề cao cảnh giác bảo đảm an ninh, quốc phòng.
- Củng cố tăng cường cơ sở vật
chất, nâng cao nội dung chất lượng phục vụ của các trạm văn hoá thông tin và
các đội thông tin lao động.
- Mở rộng các hoạt động văn hoá
thông tin quần chúng trong các buổi chợ phiên vùng cao. Nâng cao chất lượng phục
vụ của các đội chiếu phim. Bộ Thông tin có kế hoạch trang bị cho mỗi tỉnh một hệ
thống đồng bộ thiết bị quay và chiếu băng ghi hình (video).
- Tăng cường các buổi phát thanh
bằng sóng ngắn. Đài tiếng nói Việt Nam phối hợp với ban Dân tộc trung ương biên
soạn chương trình phát thanh ằng tiếng dân tộc.
Tổng cục Bưu điện đầu tư nâng
cao chất lượng phát sóng Đài Truyền hình Tam Đảo, chuẩn bị đầu tư một số trạm
chuyển tiếp Đài Truyền hình Trung ương ở một số tỉnh.
b) Giáo dục và đào tạo.
- Bộ Giáo dục trình Hội đồng Bộ
trưởng trong tháng 6 năm 1989 đề án xoá nạn mù chữ ở miến núi, trước tiên là
cho cán bộ quản lý xã, thanh thiếu niên chú trọng các lực lượng tham gia xoá nạn
mù chữ kể cả bộ đội thù lao đối với lực lượng này.
- Bộ Giáo dục sớm nghiên cứu
thay đổi phương pháp và nội dung giảng dạy và học tập trung các trường phổ
thông ở miền núi cho thiết thực.
Tổ chức lại các trường phổ thông
cơ sở, tách riêng thành từng trường cấp I và cấp II ngay từ năm học 1989 -
1990. Thực hiện chế độ giáo viên dạy ghép một số môn.
Mở thêm các trường sư phạm để
đào tạo giáo viên cơ sở người dân tộc, Các tỉnh tổ chức tuyển người địa phương
đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự (chú ý người dân tộc ít người) để đào tạo giáo
viên và cán bộ.
Học sinh vùng cao không phải nộp
học phí và sử dụng sách giáo khoa không phải trả tiền.
Bộ Đại học - Trung học chuyên
nghiệp và Dạy nghề mở thêm các lớp riêng cho học sinh dân tộc ít người trong một
số trường đại học và học theo chương trình rút gọn nhưng không rút ngắn thời
gian học.
- Bộ Văn hoá thoả thuận với Bộ Đại
học - Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề để lập khoa dân tộc trong trường Đại
học văn hoá.
- Bộ Giáo dục củng cố các trường
nội trú cho học sinh dân tộc; có kế hoạch tăng cường các thiết bị trường học
cho các trường này. Cùng với Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội
nghiên cứu điều chỉnh mức sinh hoạt phí cho học sinh.
- Bãi bỏ chế độ 3 năm chuyển
vùng đối với giáo viên miền xuôi lên miền núi như trước đây, thực hiện chế độ tự
nguyện; nếu ở lại được thì được hưởng mọi chế độ ưu tiên như cán bộ các ngành
khác công tác ở miền núi.
c) Về y tế.
- Tăng cường hệ thống dịch vụ y
tế, ưu tiên thuốc chữa bệnh cho vùng cao, nhất là thuốc phòng chống các bệnh uốn
ván, sởi, bại liệt, bệnh sốt rét, bướu cổ, v.v... Tiếp tục thực hiện chế độ
phát thuốc sốt rét cho nhân dân, giảm giá bán muối có trộn iốt, ngân sách Nhà
nước bù lỗ.
- Xây dựng các trạm xá ở vùng
cao và các xã giáp biên.
- Tổ chức các quầy thuốc lưu động
tại các chợ; mở đại lý bán thuốc xuống các bản, xã.
- Miễn viện phí cho đồng bào các
dân tộc ít người.
- Bộ Y tế ưu tiên dành một phần
viện trợ quốc tế cho các tỉnh miền núi biên giới để chống bệnh sốt rét, bướu cổ,
v.v...
- Thực hiện tốt cuộc vận động
sinh đẻ có kế hoạch.
13. Về chính sách cán bộ.
- Các ngành ở trung ương phối hợp
với các địa phương mở lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước
và khoa học kỹ thuật cho cán bộ đương nhiệm các cấp. Mạnh dạn cử cán bộ (chú ý
cán bộ người dân tộc) có năng lực, trẻ đi đào tạo dài hạn ở trong nước hoặc nước
ngoài.
Bộ Lao động - Thương binh xã hội
cùng Bộ Tài chính nghiên cứu đề nghị chế độ phụ cấp cho cán bộ người dân tộc đi
học.
- Bộ Lao động - Thương binh và
xã hội sửa đổi nâng mức phụ cấp khu vực cho cán bộ công tác ở vùng cao có nhiều
khó khăn; quy định chế độ phụ cấp cho cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản
lý, công nhân kỹ thuật đang làm việc ở vùng khác đến phục vụ ở vùng cao; quy định
mức trợ cấp một lần cho công nhân, viên chức và học sinh mới ra trường được điều
động đến nhận công tác ở miền núi; nâng mức sinh hoạt phí hàng tháng của Chủ tịch
Uỷ ban Nhân dân xã, bí thư đảng uỷ xã đương chức ở vùng cao bằng mức lương của
trưởng ngành huyện; quy định mức trợ cấp cho Trưởng bản ở những xã vùng cao.
- Đồng bào các bản, xã giáp biên
giới trở về quê cũ làm ăn , sinh sống, đồng bào các vùng lòng hồ sông Đà phải
di chuyển đi nơi khác được hưởng chế độ như đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới
theo Quyết định số 95-CP ngày 27-3-1980 của Hội đồng Chính phủ.
Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các
Uỷ ban Nhà nước và Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng căn cứ
vào quyền hạn và nhiệm vụ của mình ban hành ngay trong tháng 6 năm 1989 thông
tư hướng dẫn thi hành Chỉ thị này. Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh miền núi
biên giới phía Bắc tiếp tục cụ thể hoá các chính sách, chế độ chung để vận dụng
phù hợp với đặc điểm của tỉnh, của từng vùng, từng dân tộc.
Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các
Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch
Uỷ ban Nhân dân các tỉnh miền núi biên giới phía Bắc chịu trách nhiệm thi hành
Chỉ thị này.