BAN
CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
******
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
********
|
Số:
58-CT/TW
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2000
|
CHỈ THỊ
VỀ ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN PHỤC
VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Công nghệ thông tin là một trong
các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ
cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới
hiện đại.
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước
ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn
dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành
kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả
cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
I- TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN Ở NƯỚC TA
Ngay từ thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Đảng và Nhà
nước đã có chủ trương vận dụng công nghệ - thông tin trong một số lĩnh vực. Bước
sang thời kỳ đổi mới, chủ trương ấy đã được nhấn mạnh và cụ thể hoá trong nhiều
nghị quyết của Đảng và Chính phủ.
Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 30-3-1991 của Bộ
Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới đã nêu : "Tập
trung sức phát triển một số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn như điện tử, tin
học,...". Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá
VII) ngày 30-7-1994 xác định : "Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công
nghệ tiên tiến, như công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin học
hoá nền kinh tế quốc dân". Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ VIII nhấn mạnh : "ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực
kinh tế quốc dân, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu
quả của nền kinh tế... Hình thành mạng thông tin quốc gia liên kết với một số mạng
thông tin quốc tế"... Để thể chế hoá về mặt Nhà nước, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 49/CP ngày 04 tháng 8 năm 1993 về "Phát triển công nghệ
thông tin ở Việt Nam trong những năm 90".
Thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ
những năm 70 công nghệ thông tin ở nước ta đã được ứng dụng và phát triển, góp
phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhận thức của toàn xã hội về vai trò và ý nghĩa
quan trọng của công nghệ thông tin đã được nâng lên một bước. Nguồn nhân lực về
công nghệ thông tin tăng lên đáng kể. Viễn thông đang phát triển nhanh theo hướng
hiện đại hoá. Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP ngày 05 tháng 6 năm 2000 của Chính phủ
về xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000 - 2005 đang và sẽ
tiếp tục tạo ra môi trường thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
đầu tư, kinh doanh, sản xuất và cung ứng dịch vụ phần mềm.
Tuy nhiên, công nghệ thông tin Việt Nam hiện nay
vẫn đang ở tình trạng lạc hậu, phát triển chậm, có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với
nhiều nước trên thế giới và khu vực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa đáp
ứng được yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và yêu cầu về hội
nhập khu vực và quốc tế, vai trò động lực và tiềm năng to lớn của công nghệ
thông tin chưa được phát huy mạnh mẽ; việc phát triển nguồn nhân lực công nghệ
thông tin chưa được chuẩn bị kịp thời cả về số lượng và chất lượng, về chuyên
môn cũng như về ngoại ngữ, viễn thông và Internet chưa thuận lợi, chưa đáp ứng
các yêu cầu về tốc độ, chất lượng và giá cước cho ứng dụng và phát triển công
nghệ thông tin; đầu tư cho công nghệ thông tin chưa đủ mức cần thiết; quản lý
nhà nước về lĩnh vực này vẫn phân tán và chưa hiệu quả, ứng dụng công nghệ
thông tin ở một số nơi còn hình thức, chưa thiết thực và còn lãng phí.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của các cấp,
các ngành và toàn xã hội về vai trò của công nghệ thông tin chưa đầy đủ; thực
hiện chưa triệt để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; chưa kết hợp
chặt chẽ ứng dụng công nghệ thông tin với quá trình cơ cấu lại sản xuất, kinh
doanh, cải cách hành chính, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của Nhà nước; chậm ban hành các chính sách đáp ứng nhu cầu ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin; quản lý nhà nước trong các lĩnh vực máy tính, viễn thông
và thông tin điện tử chưa thống nhất, thiếu đồng bộ, chưa tạo được môi trường cạnh
tranh lành mạnh cho việc cung ứng dịch vụ viễn thông và Internet, chưa coi đầu
tư cho xây dựng hạ tầng thông tin là loại đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế, xã hội.
II- MỤC TIÊU, CHỦ TRƯƠNG, NHIỆM
VỤ VÀ GIẢI PHÁP
Đến năm 2010, công nghệ thông
tin Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực với một số mục tiêu cơ bản
sau đây :
- Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi
trong mọi lĩnh vực, trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng.
- Phát triển mạng thông tin quốc gia phủ trên cả
nước, với thông lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, giá rẻ; tỷ lệ người sử dụng
Internet đạt mức trung bình thế giới.
- Công nghiệp công nghệ thông tin trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ phát triển hàng năm cao nhất so với các khu vực
khác; có tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng.
Để thực hiện tốt mục tiêu nêu trên, Bộ Chính trị
chủ trương :
1- ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin là
một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là phương tiện
chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi
trước.
2- Mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội,
an ninh, quốc phòng đều phải ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển.
3- Mạng thông tin quốc gia là kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội quan trọng, phải tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ứng dụng
và phát triển công nghệ thông tin, đảm bảo được tốc độ và chất lượng cao, giá
cước rẻ.
4- Phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông
tin là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin.
5- Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin
thành một ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là phát triển công nghiệp phần mềm.
Bộ Chính trị yêu cầu các cấp, các ngành thực hiện
tốt các nhiệm vụ và giải pháp sau đây :
1- ứng dụng rộng rãi, có hiệu
quả công nghệ thông tin trong toàn xã hội.
Các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị
- xã hội đi đầu trong việc triển khai, ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi
hoạt động theo phương châm đảm bảo tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả lâu dài.
Tin học hoá hoạt động của các cơ quan Đảng và
Nhà nước là bộ phận hữu cơ quan trọng của cải cách nền hành chính quốc gia, là
nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan nhằm tăng cường năng lực quản lý, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng chỉ đạo khẩn trương xây
dựng các hệ thống thông tin cần thiết phục vụ lợi ích công cộng của nhân dân,
phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Sớm hoàn thiện, thường
xuyên nâng cấp và sử dụng có hiệu quả mạng thông tin diện rộng của Đảng và
Chính phủ. Đảm bảo đến năm 2005, về cơ bản xây dựng và đưa vào hoạt động hệ thống
thông tin điện tử của Đảng và Chính phủ.
Tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong
các lĩnh vực tài chính (thuế, kho bạc, kiểm toán...), ngân hàng, hải quan, hàng
không, thương mại, thương mại điện tử và các dịch vụ công cộng (giáo dục, đào tạo
từ xa, chữa bệnh từ xa, thư viện điện tử,...); đảm bảo các điều kiện cần thiết
phù hợp với tiến độ hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Các doanh nghiệp, trước hết là các tổng công ty
90 và 91 cần đầu tư cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, sử dụng
thương mại điện tử, coi đó là biện pháp cơ bản để đổi mới quản lý, đổi mới công
nghệ, cơ cấu lại sản xuất, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Khẩn trương xây dựng các chương trình ứng dụng
và phát triển công nghệ thông tin, kết hợp công nghệ thông tin với công nghệ
sinh học để phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, đặc
biệt góp phần xoá đói giảm nghèo và thúc đẩy phát triển vùng sâu, vùng xa.
Tạo điều kiện để mọi tầng lớp xã hội ở mọi miền
đất nước có thể biết khai thác, sử dụng thông tin điện tử và ứng dụng công nghệ
thông tin, đặc biệt quan tâm hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn và khuyết
tật.
Lực lượng an ninh - quốc phòng nhanh chóng phổ cập,
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, tạo tiền đề quan trọng góp phần xây
dựng lực lượng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; từng bước xây dựng hệ thống tự động
hóa chỉ huy, kiểm soát, làm chủ, cải tiến vũ khí, khí tài và phương tiện chiến
đấu; đảm bảo an ninh quốc gia; sẵn sàng, chủ động đối phó với chiến tranh thông
tin hiện đại.
Các cơ quan thông tin đại chúng, báo chí, xuất bản
và các dịch vụ điện tử công cộng khẩn trương phát triển các loại hình thông tin
điện tử, thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức và kiến thức về
công nghệ thông tin cho toàn xã hội.
2- Tạo môi trường thuận lợi
cho ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển công nghệ thông tin.
Công nghệ thông tin là lĩnh vực được đặc biệt
khuyến khích đầu tư. Rà soát và tháo bỏ mọi nhận thức và quy định không phù hợp,
tạo điều kiện thuận lợi nhất, áp dụng mức ưu đãi hiện hành cao nhất và từng bước
đạt mức ưu đãi bằng hoặc cao hơn so với các nước trong khu vực cho việc ứng dụng
và phát triển công nghệ thông tin, đi đôi với việc thực hiện các biện pháp quản
lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả.
Chuẩn hoá thông tin và các hệ thống thông tin
trong từng lĩnh vực. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc trao đổi và sử dụng
chung các cơ sở dữ liệu, các hệ thống thông tin trong nước và quốc tế.
Có các biện pháp chủ động và các quy định cụ thể
về an toàn và an ninh thông tin, trước hết trong các lĩnh vực quản lý nhà nước,
an ninh - quốc phòng.
Khuyến khích và hỗ trợ việc phổ cập và nâng cao
trình độ ngoại ngữ trong một bộ phận nhân dân, trước hết là trong thanh niên,
thiếu niên. Có biện pháp và công cụ hỗ trợ để nhiều nguời Việt Nam có thể dễ
dàng sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin bằng tiếng Việt.
Xây dựng tiêu chuẩn ngành, nghề với mức lương và
chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn về công nghệ thông tin.
Ưu tiên đầu tư cho ứng dụng và phát triển công
nghệ thông tin trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội. Coi
hạ tầng thông tin là hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng. Ưu tiên sử dụng nguồn
vốn ODA cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Đảm bảo các điều kiện để
thực hiện đầy đủ và đúng tiến độ các dự án ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin đã được phê duyệt.
Đưa vào hệ thống mục lục ngân sách nhà nước loại
chi riêng về công nghệ thông tin. Hình thành quỹ hỗ trợ, quỹ đầu tư khắc phục rủi
ro cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin.
Các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin để
đổi mới quản lý, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh được hưởng các chính
sách về đầu tư đổi mới công nghệ.
Khuyến khích việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ
công nghệ thông tin được tạo ra trong nước. Các đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà
nước phải sử dụng các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin trong nước đã được
công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các dự án đầu
tư về công nghệ thông tin trước hết phải giao cho các tổ chức, cá nhân trong nước
đấu thầu thực hiện; chỉ giao cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài khi trong nước
chưa đủ năng lực. Xử lý nghiêm các hành vi cố ý vi phạm hoặc gây cản trở việc ứng
dụng các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin được tạo ra trong nước.
Các sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin được
tạo ra trong nước không chịu thuế giá trị gia tăng. Các doanh nghiệp trong lĩnh
vực công nghệ thông tin được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh
nghiệp, được hưởng chế độ ưu đãi về tín dụng, về sử dụng đất theo quy định của
pháp luật.
Xây dựng chương trình hỗ trợ xuất khẩu trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, trước mắt là gia công phần mềm và xuất khẩu lao động.
Tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam làm
việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin đi làm việc ở nước ngoài và trở về nước.
Tập trung đầu tư, có các chính sách và giải pháp
đặc biệt để đảm bảo cho các khu công nghệ cao Hoà Lạc và Thành phố Hồ Chí Minh
được triển khai theo đúng tiến độ và sớm đi vào hoạt động, trong đó chú trọng
ưu tiên các khu công nghiệp công nghệ phần mềm, ưu tiên các nguồn vốn ODA cho
các khu công nghệ cao; có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công
nghệ cao với mức ưu đãi cao hơn so với các nước trong khu vực. Tích cực phát
triển các khu công nghệ cao ở các địa phương khác khi có điều kiện thuận lợi.
Hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
và đảm bảo việc thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có
bảo hộ quyền tác giả đối với phần mềm và các sản phẩm công nghệ thông tin khác.
3- Đẩy mạnh việc đào tạo và
sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin.
Phát triển quy mô và tăng cường chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực về công nghệ thông tin, chú trọng phát triển nhanh lực lượng cán
bộ chuyên sâu, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia phần mềm, đáp ứng kịp thời và thường
xuyên nhu cầu trong nước và một phần thị trường nước ngoài. Đến năm 2005 ít nhất
phải đào tạo thêm được 50.000 chuyên gia về công nghệ thông tin ở các trình độ
khác nhau, đạt chỉ tiêu về số lượng (tính trên 10.000 dân) và chất lượng chuyên
gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin ngang với mức bình quân của các nước
trong khu vực.
Trước mắt, bằng những hình thức thích hợp, tổ chức
thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về công nghệ thông tin cho những
người đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp thuộc
các chuyên ngành khác.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công
tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình
thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập
trung phát triển mạng máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối
Internet tới tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo.
Đầu tư thoả đáng cho công tác đào tạo, nghiên cứu
về công nghệ thông tin; gắn chặt giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất, kinh
doanh. Xã hội hoá mạnh mẽ việc đào tạo về công nghệ thông tin. Khuyến khích và
thu hút các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo, sử dụng
nguồn nhân lực về công nghệ thông tin của Việt Nam.
Xây dựng và thực hiện chương trình cử giáo viên
đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước để nâng cao trình độ giảng dạy; tạo
điều kiện cho học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh đi học, thực tập và nghiên cứu
về công nghệ thông tin ở nước ngoài; áp dụng chính sách đặc biệt cho việc đào tạo,
bồi dưỡng chuyên gia giỏi, nhân tài trong lĩnh vực công nghệ thông tin; có chế
độ tạm ứng học phí đối với người nghèo hoặc có hoàn cảnh khó khăn muốn tham gia
các chương trình đào tạo nghề trong lĩnh vực công nghệ thông tin để lập nghiệp.
4- Đẩy nhanh việc xây dựng mạng
thông tin quốc gia, bao gồm hệ thống viễn thông và Internet Việt Nam.
Đẩy mạnh đầu tư xây dựng mạng thông tin quốc gia
bao gồm hệ thống viễn thông và Internet Việt Nam. Phát triển nhanh mạng thông
tin quốc gia, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của toàn xã hội, đặc biệt sớm
hình thành siêu xa lộ thông tin trong nước và liên kết với các nước trong khu vực
và quốc tế.
Phát triển, quản lý viễn thông và Internet nhất
thiết phải phục vụ việc đẩy nhanh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin
trong mọi lĩnh vực và trong toàn xã hội, đồng thời phải có biện pháp toàn diện,
đồng bộ để ngăn chặn những hành vi lợi dụng gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia
và việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Có chính sách đảm bảo thúc đẩy môi trường cạnh
tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ
viễn thông và Internet. Từ năm 2001, đảm bảo cung cấp đầy đủ và thuận lợi các dịch
vụ viễn thông và Internet cho người sử dụng với tốc độ và chất lượng cao, giá
cước thấp hơn hoặc tương đương so với các nước trong khu vực; áp dụng giá cước
ưu đãi đặc biệt đối với các cơ quan Đảng, Nhà nước và các lĩnh vực giáo dục,
đào tạo và nghiên cứu khoa học.
5- Tăng cường, đổi mới công tác
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực công nghệ thông tin.
Chính phủ sớm kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý
về viễn thông và công nghệ thông tin để thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh
vực này.
Trước mắt, mỗi cơ quan Đảng, Nhà nước cấp Trung
ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cử cán bộ lãnh đạo trực tiếp
phụ trách về công nghệ thông tin.
Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về quản lý, ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin theo phương
châm năng lực quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển, đầu tư phải thiết thực,
hiệu quả, không được lãng phí và đảm bảo công khai, rõ ràng, minh bạch.
III- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo việc thể chế
hoá về mặt Nhà nước các chính sách, giải pháp được nêu trong Chỉ thị này; xây dựng
kế hoạch ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin đến 2005 và 2010 nhằm đạt
được các mục tiêu đã đề ra; chỉ đạo, kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện, báo cáo
định kỳ về tình hình ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; sớm có phương
án kiện toàn bộ máy quản lý công nghệ thông tin của nhà nước.
Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo việc rà soát lại và bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh việc ứng
dụng và phát triển công nghệ thông tin.
- Các cấp uỷ đảng phải coi việc lãnh đạo, chỉ đạo
ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin là một nhiệm vụ quan trọng và thường
xuyên; phải tổ chức quán triệt sâu sắc về vai trò, vị trí của công nghệ thông
tin trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; có kế hoạch triển
khai thực hiện và định kỳ báo cáo cấp uỷ cấp trên về việc thực hiện Chỉ thị
này.
Các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội động
viên quần chúng tích cực học tập, nâng cao trình độ hiểu biết về công nghệ -
thông tin, chủ động tham gia có hiệu quả vào các hoạt động ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin.
-Ban Khoa giáo Trung ương, Ban Kinh tế Trung
ương, Văn phòng Trung ương, Ban Chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin các cơ
quan Đảng làm đầu mối giúp Bộ Chính trị hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện Chỉ
thị này.
Nơi nhận:
- Các tỉnh uỷ, thành uỷ,
- Các ban, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương,
- Lưu Văn phòng Trung ương.
|
T/M. BỘ
CHÍNH TRỊ
Phạm Thế Duyệt
|