Chỉ thị 33/2007/CT-TTg về biện pháp cấp bách điều hành các hồ chứa nước thủy điện trong mùa khô và việc đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất vụ đông xuân 2007-2008 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 33/2007/CT-TTg |
Ngày ban hành | 28/12/2007 |
Ngày có hiệu lực | 28/12/2007 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Thủ tướng Chính phủ |
Người ký | Hoàng Trung Hải |
Lĩnh vực | Tài nguyên - Môi trường |
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 33/2007/CT-TTg |
Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2007 |
Tình hình thời tiết, khí tượng thủy văn tiếp tục diễn biến rất phức tạp, khả năng thiếu nước khô hạn có thể xảy ra trong mùa khô năm 2008, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất điện và việc đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân năm 2007-2008. Hiện nay, dòng chảy trên các sông ở Bắc bộ thiếu hụt nhiều so với trung bình nhiều năm, đặc biệt là mực nước trên hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình tiếp tục xuống thấp, có khả năng gây thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp, thủy sản và làm cản trở giao thông đường thủy.
Để chủ động phòng, chống và khắc phục hậu quả do thiếu nước, khô hạn gây ra, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các Bộ, ngành, địa phương liên quan triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ cấp bách sau đây:
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường:
- Chỉ đạo Trung tâm Khí tượng Thuỷ văn quốc gia theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, thủy văn, dòng chảy để có dự báo, cảnh báo sớm về tình hình khô hạn, thiếu nước, thông báo kịp thời cho các nhà máy thủy điện, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các Bộ, ngành, địa phương liên quan và nhân dân biết để có giải pháp chủ động phòng, chống hạn, bảo vệ sản xuất có hiệu quả.
- Phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Y tế và các địa phương có biện pháp phòng ngừa, bảo vệ nguồn nước và xử lý ô nhiễm môi trường nước để đảm bảo nước phục vụ sinh hoạt và đời sống dân sinh.
3. Tập đoàn Điện lực Việt Nam:
- Rà soát lại tình hình trữ nước ở các hồ chứa thủy điện, có kế hoạch điều tiết nguồn nước hợp lý (lên kế hoạch điều độ từng tuần, từng tháng, từng quý) để đảm bảo việc phát điện và cấp nước phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân năm 2008 có hiệu quả;
- Chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án, công trình điện, kiểm tra tiến độ thi công từng công trình, giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc theo thẩm quyền để sớm đưa vào khai thác, sử dụng phục vụ phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; Uông Bí mở rộng 1, Tuyên Quang, Đại Ninh, Plei Krông... và dự án mua thêm điện từ Trung Quốc.
- Tiếp tục tổ chức thực hiện các giải pháp điều độ hợp lý nhằm giảm tổn thất điện năng, thực hiện tốt chương trình tiết kiệm điện trong sản xuất và tiêu dùng để bảo đảm nguồn điện ổn định trong mùa khô năm 2008; đồng thời chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo nội dung Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 04 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ;
- Có biện pháp bảo đảm cung cấp điện ổn định, an toàn; nhất là nhu cầu điện cho các trạm bơm phục vụ việc đổ ải; phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương có phương án, kế hoạch cụ thể thực hiện việc điều tiết nguồn nước ở các hồ thủy điện để đảm bảo vừa đáp ứng nhu cầu phát điện, đồng thời đảm bảo nước phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân.
- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện xả nước phục vụ đổ ải 3 lần, đảm bảo mức nước sông Hồng tại Hà Nội là 2,3 mét.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
- Kiểm tra, chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xây dựng phương án phòng, chống hạn, bảo vệ sản xuất cụ thể cho từng vùng, khu vực;
- Chỉ đạo quản lý chặt chẽ nguồn nước, chống rò rỉ, thất thoát nước của các hồ chứa, các công trình thủy lợi, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam trong việc điều tiết, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn nước xả của các hồ thủy điện để phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân 2008;
- Có biện pháp quản lý phân phối nước hợp lý, hiệu quả; có kế hoạch cụ thể bố trí lịch tưới nước phục vụ đổ ải và tưới luân phiên, tiết kiệm nước; đồng thời chỉ đạo các địa phương rà soát lại kế hoạch điều chỉnh mùa vụ sản xuất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với nguồn nước, hướng dẫn các địa phương chuyển sang trồng một số loại cây màu thích hợp ở các vùng có khó khăn về nguồn nước.
- Kiểm tra, chỉ đạo và hướng dẫn các địa phương bị lũ lụt khẩn trương khôi phục, sửa chữa các công trình thủy lợi cấp bách để phục vụ sản xuất; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình thủy lợi để đưa vào khai thác sử dụng; đối với các hồ chứa đang xây dựng nếu đủ điều kiện an toàn cũng phải tích nước phục vụ công tác chống hạn.
5. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
- Chỉ đạo các cấp, các ngành đánh giá, kiểm tra nguồn nước hiện có và nhu cầu sử dụng nước cụ thể của từng ngành, địa phương; rà soát lại kế hoạch sản xuất vụ Đông Xuân và có phương án kế hoạch chủ động phòng ngừa và khắc phục hậu quả khi xảy ra tình trạng thiếu nước, khô hạn, bảo đảm nguồn nước để phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh. Đồng thời có các biện pháp ngăn ngừa, xử lý ô nhiễm nguồn nước và phòng, chống dịch bệnh phát sinh do thiếu nước và khô hạn kéo dài.
- Chỉ đạo việc rà soát, kiểm tra các công trình thủy lợi trên địa bàn, chỉ đạo, huy động lực lượng triển khai công tác sửa chữa các sự cố hư hỏng để phát huy hiệu quả các công trình thủy lợi; khai thông các cửa khẩu lấy nước, kênh trục, bể hút các trạm bơm và huy động các lực lượng và nhân dân địa phương tham gia công tác làm thủy lợi, nạo vét kênh mương và xử lý, bảo vệ môi trường nước.
- Tăng cường các biện pháp trữ nước, sử dụng nước tiết kiệm, hợp lý; nhất là có biện pháp tận dụng tối đa nguồn nước khi nhà máy thủy điện xả nước để phục vụ sản xuất nông nghiệp; chỉ đạo việc điều chỉnh lịch thời vụ, cơ cấu cây trồng phù hợp với khả năng nguồn nước, kiên quyết không được bỏ trống diện tích; chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết về giống phân bón, vật tư... để phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân, nơi nào khó khăn về nguồn nước phải kiên quyết chuyển từ trồng lúa sang trồng các loại rau màu, cây lương thực ngắn ngày.
- Chỉ đạo các Công ty quản lý, khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn có biện pháp bảo đảm nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối; đồng thời thực hiện triệt để chính sách tiết kiệm nước; Các tỉnh chủ động sử dụng ngân sách của địa phương để phục vụ công tác phòng, chống hạn, bảo vệ sản xuất theo nội dung Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi.
Đối với các tỉnh bị lũ lụt, chủ động sử dụng nguồn ngân sách Trung ương hỗ trợ, ngân sách địa phương và các nguồn tài chính hợp pháp khác để khẩn trương khôi phục, sửa chữa các công trình thủy lợi bị hư hại do mưa lũ trong thời gian qua, sớm đưa vào khai thác, sử dụng để đáp ứng nhu cầu nước phục vụ sản xuất kịp thời vụ.