CHÍNH
PHỦ
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
178-TTg
|
Hà
Nội, ngày 13 tháng 08 năm 1973
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TIẾN HÀNH TỔNG KIỂM KÊ TÀI SẢN.VÀO 0 GIỜ NGÀY 01
THÁNG 10 NĂM 1973
Cuối năm 1972, Thủ tướng Chính phủ
đã quyết định tiến hành kiểm kê tài sản và điều tra năng lực sản xuất vào
0 giờ ngày 1 tháng 1 năm 1973; lúc ấy điều kiện khách quan chưa thuận lợi nên kết
quả nắm tình hình chưa chính xác, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng yêu cầu của công
tác chỉ đạo và quản lý kinh tế.
Vì vậy, Bộ Chính trị Trung ương
Đảng và Hội đồng Chính phủ lại vừa quyết định tổng kiểm kê tài sản vào 0 giờ
ngày 1 tháng 10 năm 1973; giao trách nhiệm cho ban chỉ đạo điều tra nắm tình
hình tài sản và thanh lý tài sản của Chính phủ thành lập theo quyết định số
231-CP ngày 15-12-1971, tiếp tục giúp chỉ đạo cuộc tổng kiểm kê này , nhằm các
yêu cầu, mục tiêu như sau.
1. Nắm lại chặt
chẽ và chính xác tình hình tài sản của Nhà nước sau chiến tranh thuộc trách nhiệm
quản lý trực tiếp của từng đơn vị cơ sở sản xuất, kinh doanh, hành chính, sự
nghiệp( dưới đây gọi tắt là đơn vị cơ sở ), xác định tình hình thiệt hại trong
chiến tranh và thực trạng của tài sản hiện có về các mặt số lượng, cơ cấu, chất
lượng, công suất thiết kế và công suất thực tế sử dụng, giá ban đầu, giá còn lại
v.v...kiểm tra tình hình quản lý tài sản.
2. Đánh giá
đúng đắn năng lực sản xuất hiện nay và mức độ huy động năng lực đó, phân tích
nguyên nhân và đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp nhằm phát huy cao nhất
năng lực sẵn có trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch khôi phục và phát triển
kinh tế, văn hoá năm 1974-1975 ngay từ đơn vị cơ sở.
3. Chấn chỉnh
việc quản lý tài sản , xác định trách nhiệm cụ thể của từng đơn vị , từng người
trong việc thực hiện chế độ bảo dưỡng, sử dụng, cũng như trong việc kế toán tài
sản, thiết bị, vật tư , đồng thời xử lý và thanh lý tài sản thiết bị, vật tư bị
thiệt hại trong chiến tranh, bị ứ đọng, kém hoặc mất phẩm chất.v.v...nhằm góp
phần tăng cường bảo vệ và sử dụng hợp lý tài sản, thiết bị, vật tư ổn định tình
hình quản lý của xí nghiệp thực hiện hạch toán kinh tế.
Ba yêu cầu nói trên có quan hệ mật
thiết với nhau, nhằm đạt mục tiêu cơ bản và cuối cùng của cuộc tổng kiểm kê là
phát huy cao nhất năng lực sản xuất sẵn cớ ở mỗi đơn vị cơ sở, tăng cường quản
lý tài sản của Nhà nước, trước hết là ở từng đơn vị cơ sở.
Cuộc tổng kiểm kê tài sản ngày 1
tháng 10 năm 1973, với các yêu cầu và mục tiêu như trên, trước hết là nhiệm vụ
và trách nhiệm của các đơn vị cơ sở, mà chủ yếu là những người phụ trách các
đơn vị cơ sở.
Giám đốc xí nghiệp thuộc tất cả
các ngành kinh tế quốc doanh, thủ trưởng các cơ quan hành chính, sự nghiệp phải:
- Nắm tài sản, xem xét tình hình
sử dụng năng lực sản xuất trong đơn vị, chủ động có kế hoạch tận dụng, cải tiến
quản lý để làm đầy đủ trách nhiệm quản lý của mình trước Nhà nước.
- Trực tiếp tổ chức thực hiện việc
tổng kiểm kê, phân tích tình hình, coi đây như một công tác quan trọng đột xuất
trong thời gian khoảng 2 tháng kể từ cuối tháng 8 năm 1973, trong thời gian
này, phải tập trung chỉ đạo, tập trung cán bộ, để làm tổng kiểm kê và làm báo
cáo tổng kiểm kê.
- Gửi báo cáo tổng kiểm kê trước
ngày 15 tháng 10 năm 1973 cho Bộ chủ quán, Ban chỉ đạo điều tra và thanh lý tài
sản của Chính Phủ , Tổng Cục Thống kê ( nếu là đơn vị cơ sở trực thuộc Trung
ương ) hoặc Ủy ban Hành chính tỉnh, thành phố( nếu là đơn vị trực thuộc cấp địa
phương); báo cáo phải kèm theo phương án huy động và nâng cao năng lực sản xuất,
sẵn có của xí nghiệp đưa vào kế hoạch năm 1974(và 1975).
Các đồng chí thủ trưởng các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính Phủ và các đồng chí
chủ tịch Ủy ban Hành chính các tỉnh, thành phố có trách nhiệm:
- Chỉ đạo chặt chẽ, hương dẫn,
đôn đốc và kỉêm tra các đơn vị cơ sở trực thuộc tiến hành tổng kiểm kê, phân
tích năng lực sản xuất, bảo đảm đúng yêu cầu và thời gian.
- Thành lập ngay Ban chỉ đạo tổng
kiểm kê do một do một đồng chí thủ trưởng Bộ, cơ quan ngang Bộ,cơ quan trực thuộc
Hội đồng Chính Phủ, đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch Ủy ban Hành chính phụ
trách để giúp việc chỉ đạo tổng kiểm kê trong ngành, trong địa phương.
- Kịp thời biểu dương, khen thưởng
các đơn vị làm tốt, đồng thời có thái độ xử lý nghiêm khắc và nêu cần phải thi
hành kỷ luật, đối với những đơn vị làm qua loa, đại khái, báo cáo không trung
thực, không chính xác, phải coi việc làm báo cáo không trung thực, không chính
xác để cố tình hợp pháp hoá những việc làm sai trái là vi phạm pháp luật và phải
xử lý theo đúng pháp luật.
- Tổng hợp tình hình tài sản,
phân tích và có kế hoạch phát huy năng lực sẵn có của từng ngành kinh tế thuộc
phạm vi quản lý trực tiếp của mình và gửi báo cáo cho Ban chỉ đạo điều tra và
thanh lý tài sản của Chính Phủ và Tổng cục Thống kê, ngoài ra gửi cho Bộ Vật
tư(phần báo cáo vật tư), Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuât Nhà nước (phần báo cáo thiết
bị nghiên cứu khoa học), toàn bộ công việc báo cáo này phải xong trước ngày 15
tháng 11 nam 1973.
Các Bộ có chức năng quản lý,
dự trữ vật tư Nhà nước trực tiếp chỉ đạo kiểm kêvà tổng hợp tình hình tài sản
dự trữ Nhà nước báo cáo Thủ tướng Chính Phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng
Bộ Vật tư và Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.
Ngân hàng Nhà nước trực
tiếp chỉ đạo kiểm kê và tổng hợp tình hình tiền mặt, kiêm khí quý, ngoại tệ và
các chứng khoán có giá trị như tiền trong kho, trong quỹ của các đơn vị ngân
hàng, báo cáo Thủ tướng Chính Phủ Bộ trưởng Bộ Tài chính và Tổng cục trưởng Tổng
cục Thống kê.
Bộ Quốc phòng và Bộ Công an
đề ra phương án và trực tiếp chỉ đạo tổng kiểm kê tài sản trong các lực lượng
vũ trang và lực lượng công an.
Ban chỉ đạo điều tra và thanh
lý tài sản của Chính Phủ giúp Thường vụ Hội đồng Chính Phủ chỉ đạo công tác
điều tra , hướng dẫn kế hoạch tổng kiểm kê , có trách nhiệm theo dõi, kiễm tra
và đôn đốc các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở thực hiện, bảo đảm yêu cầu
và hoàn thành công việc đúng thời hạn, phải định kỳ phản ảnh tình hình công việc
cho Thủ tướng Chính Phủ , phải nghiên cứu và phân tích tình hình sử dụng tài sản
của Nhà nước ở các ngành, các cấp, kiến nghị các chủ trương vá biện pháp phát
huy năng lực sản xuất và tăng cường quản lý các mặt, báo cáo Hội đồng Chính Phủ
vào cuối tháng 12 năm 1973.
Các ngành là thành viên của Ban
chỉ đạo điều tra và thanh lý tài sản của Chính Phủ phải bố trí lực lượng cán bộ
cần thíêt, phát huy chức năng của mình, để bảo đảm các yêu cầu, mục tiêu của cuộc
tổng kiểm kê, nhất là ba ngành có vai trò nòng cốt trong Ban là Tổng cục Thống
kê , Bộ Tài chính, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước .
Tổng cục Thống kê có nhiệm
vụ ban hành các biểu mẫu điều tra và kiểm kê , hướng dẫn nghiệp vụ cho các
ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở, tổ chức nắm tình hình , tổng hợp số
liêu ( cả hiện vật và giá trị), phối hợp với Bộ Tài chính phân tích và nhận xét
tình hình tài sản Nhà nước ở các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở và đề
ra biện pháp chấn chỉnh công tác quản lý.
Bộ Tài chính có nhiệm vụ cùng Tổng
cục Thống kê quy định những nguyên tắc kiểm kê, kiểm tra tình hình tài sản
của các ngành, phát hiện những khả năng tiềm tàng, kiến nghị biện pháp sử dụng
và phát huy, nhận xét về tình trạng thừa, thiếu, mất mát, hư hỏng v.v.... chỉ đạo
việc xử lý và thanh lý nhằm chấn chỉnh công tác quản lý.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và hệ
thống kế hoạch các nghành, các địa phương, các đơn vị cơ sở, phải tích cực tham
gia công tác điều tra năng lực sản xuất và tổng kiểm kê tài sản, góp ý kiến nhận
xét về các mặt, kịp thời khai thác và sử dụng các tài liệu về điều tra, kiểm kê
để đánh giá năng lực sản xuất và đề ra chủ trương, biện pháp huy động những
năng lực ấy một cách có hiệu quả trong kế hoạch 1974-1975.
Tổ chức công đoàn các cấp
cần có kế hoạch động viên quần chúng công nhân viên chức vừa tham gia tổng kiểm
kê, vừa giám sát tổng kiểm kê, bảo đảm các tài liệu chính xác và trung
thực, bảo đảm yêu cầu về thời gian.
Cuộc tổng kiểm kê tài sản
ngày 1 tháng 10 năm 1973 có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng kế hoạch
khôi phục và phát triển kinh tế , văn hoá 1974-1975 một cách có căn cứ vững chắc,
cũng như đối với việc tăng cường chỉ đạo và quản lý kinh tế ngay từ ở đơn vị cơ
sở. Các đồng chí thủ trưởng các Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính Phủ, chủ
tịch Ủy ban Hành chính các tỉnh, thành phố và thủ trưởng các đơn vị cơ sở phải
phối hợp với các công tác cấp bách khác của ngành, địa phương, cơ sở, tập trung
mọi lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân cần thiết để làm tốt
cuộc tổng kiểm kê, phải chỉ đạo chặt chẽ công việc, từ việc xác định yêu cầu, nội
dung, phương pháp và kế hoạch tiến hành, cho đến việc nghiên cứu đề ra chủ
trương phát huy năng lực sản xuất , tăng cường quản lý xí nghiệp.
|
K.T
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Nguyễn Côn
|
PHƯƠNG ÁN TỔNG KIỂM KÊ TÀI SẢN VÀO 0 GIỜ NGÀY 1 THÁNG 10 NĂM 1973
I.- MỤC TIÊU
YÊU CẦU
Cuộc tổng kiểm kê tài sản 0 giờ ngày
1-10-1973 nhằm các yêu cầu, mục tiêu như đã nói trong chỉ thị của Thủ tướng
Chính Phủ số 178-TTg ngày 13-8-1973 là :
“1. Nắm lại chặt chẽ và chính
xác tình hình tài sản của Nhà nước sau chiến tranh thuộc trách nhiệm quản
lý trực tiếp của từng đơn vị cơ sở sản xuất , kinh doanh, hánh chính, sự nghiệp;
xác định tình hình thiệt hại trong chiến tranh và thực trạng của tài
sản hiện có về các mặt số lượng , cơ cấu, chất lượng, công suất thiết bị,
công suất thực tế sử dụng giá ban đầu, giá trị còn lại; kiểm tra tình hình
quản lý tài sản.
2. Đánh giá đúng đắn năng lực
sản xuất hiện nay và mức độ huy động năng lực đó, phân tích nguyên
nhân và đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp nhằm phát huy cao nhất năng lực sẵn
có trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế,
văn hoá năm 1974-1975 ở ngay từ đơn vị cơ sở.
3. Chấn chỉnh việc quản lý
tài sản , xác định trách nhiệm cụ thể của từng đơn vị, từng người trong việc
thực hiện chế độ bảo dưỡng sử dụng cũng như trong việc kế toán tài sản, thiết bị
vật tư , đồng thời xử lý và thanh lý các tài sản, thiết bị vật tư bị thiệt hại
trong chiến tranh, bị ứ đọng, kém hoặc mất phẩm chất v.v....nhằm gốp phần tăng
cường bảo vệ và sử dụng hợp lý tài sản, thiết bị, vật tư, ổn định tình
hình quản lý của xí nghiệp, thực hiện hạch toán kinh tế.
Ba yêu cầu nói trên có quan hệ mật
thiết với nhau nhằm đạt mục tiêu cơ bản và cuối cùng của cuộc tổng kiểm
kê là phát huy cao nhất năng lực sản xuất sẵn có ở mỗi cơ sở, tăng cường
quản lý tài sản Nhà nước, trước hết là từng đơn vị cơ sở”.
Các tài liệu và báo cáo tổng kiểm
kê phải chính xác và trung thực; cuộc tổng kiểm kê phải hoàn thành ở đơn
vị cơ sở trước ngày 15 tháng 10 năm 1973, và phải tổng hợp xong các ngành Trung
ương và các địa phương trước ngày 15 tháng 11 năm 1973.
Phải đề phòng và khắc phụ hai
khuynh hướng không đúng là :
- Làm qua loa, đại khái cho xong
việc, cốt báo cáo cấp trên, không thấy tổng kiểm kê tài sản trước hết và
chủ yếu lịch sử nhiệm vụ và trách nhiệm của đơn vị mình, ngành mình, địa phương
mình để chỉ đạo và quản lý tốt hơn .
- Báo cáo không chính xác, không
trung thực để cố tính hợp pháp hoá những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật
Nhà nước; phải coi đây là những hành động phạm pháp và xử lý theo đúng pháp
luât.
II.- PHẠM VI
VÀ ĐỐI TƯỢNG
Cuộc tổng kiêm kê tài sản và tiến
hành ở tất cả các đơn vị cơ sở kinh tế quốc doanh, công tư hợp doanh, cơ quan
hành chính, cơ quan sự nghiệp thuộc trung ương và địa phương ( dưới đây gọi
tắt là đơn vị cơ sở).
Tài sản thuộc dự trữ Nhà nước
cũng phải kiểm kê trong kỳ này.
Tài sản thuộc khu vực kinh tế hợp
tác xã không kiểm kê trong kỳ này, trừ phần hàng hóa của thương nghiệp quốc
doanh do hợp tác xã mua bán làm đại lý bná và còn tồn kho ở hợp tác xã mua bán
thì phải kiểm kê.
Tiền mặt, kim khí quý, ngoại tệ
và các chứng khoán có giá trị như tiền trong quỹ, trong kho của các đơn vị Ngân
hàng phải kiểm kê theo phương án do Ngân hàng Nhà nước Trung ương quy định.
Tài sản thuộc lực lượng vũ
trang và lực lượng công an phải kiểm kê theo phương án do Bộ Quốc phòng và Bộ
Công an quy định.
Tài sản thuộc các tổ chức xã hội
được Nhà nước trợ cấp cũng kiểm kê để giúp các tổ chức này nắm được tài sản của
mình.
III.- NỘI
DUNG KIỂM KÊ
A. Tất cả các
đơn vị cơ sở đều phải kiểm kê toàn bộ tài sản về hai phương diện:giá
trị và hiện vật.
1. Các đơn
vị sản xuất, kinh doanh trong các ngành
công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, cung tiêu, thương
nghiệp…. phải kiểm kê toàn bộ tài sản cố định và tài sản lưu động thuộc trách
nhiệm quản lý trực tiếp của mình.
a) Về tài sản cố định.
1. Tài sản cố định dùng trong sản
xuất kinh doanh:
1- Nhà cửa.
2- Kho tàng,
3- Vật kiến trúc,
4- Máy móc và thiết bị động lực,
5- Máy móc và thiết bị công tác,
6- Thiết bị truyền dẫn,
7- Dụng cụ đồ nghề,
8- Dụng cụ làm việc, đo lướng, thí
nghiệm,
9- Thiết bị và phương tiện vận tải
10- Dụng cụ quản lý( gồm có sách
báo, kỹ thuật)
11- Súc vật làm việc và cho sản
phẩm,
12- Cây lâu năm,
13- Tài sản cố định khác.
II. Tài sản cố định dùng
ngoài sản xuất kinh doanh.
III. Tài sản cố định chưa dùng.
IV.- Tài sản cố định chờ
thanh toán.
V.- Tài sản cố định không cần
dùng.
VI.- Đất và tài sản cố định
không khấu hao.
b) Về tài sản lưu động.
- Nguyên liệu, vật liệu chính, vật
liệu phụ , nhiên liệu, vật bao bì đóng gói, phế liệu,
- Phụ tùng sửa chữa và thay thế,
- Vật rẽ tiền mau hỏng,
- Sản phẩm dở dang, bán thành phẩm
tự chế, bán thành phẩm mua ngoài.
- Công trình sửa chữa lớn dỡ
dang,
- Súc vật con và súc vật nuôi
béo.
- Thành phẩm của các ngành sản
xuất( chờ lưu thông),
- Thiết bị, vật tư, hàng hóa của
các ngành cung tiêu, cung ứng vật tư, thương nghiệp.
- Tiền quỹ và các chứng khoán có
giá trị như tiền.
- Các khoãn phải thanh toán.
2. Các đơn
vị thuộc ngành xây dựng cơ bản bao gồm:
a) Các đơn vị kiến thiết, ngoài
vịêc kiểm kê các tài sản cố định và tài sản lưu động như đã nói ở điểm 1
trên đây, còn phải kiểm kê:
- Số vốn xây dựng cơ bản đã được
Nhà nước cấp phát từ khi khởi công công trình đến ngày kiểm kê.
- Khối lượng xây dựng cơ bản đã
hòan thành và bàn giao cho đơn vị sản xuất hoặc đơn vị sử dụng nhưng chưa quyết
toán với ngân sách.
- Khối lượng xây dựng cơ bản đã
hoàn thành nhưng chưa bàn giao cho đơn vị sản xuất hoặc đơn vị sử dụng.
- Khối lượng xây dựng cơ bản dở
dang.
- Thiết bị, vật tư để lắp đặt, kể
cả số còn lại trong kho và số đã bàn giao cho xí nghiệp xây lắp để lắp đặt;
-Vật tư dự trữ bằng vốn dự phòng
thời chiến của các ngành giao thông, thủy lợi, bưu điện;
- Các khoản tiền gửi Ngân hàng về
vốn xây dựng cơ bản.;
-Các khoản phải thanh toán.
b) Các xí nghiệp xây lắp bao
thầu, ngoài việc kiểm kê các tài sản cố định và tài sản lưu động như đã nói
ở điểm 1 trên đây, còn phải kiểm kê:
- Chi phí xây lắp vào khối lượng
xây dựng cơ bản đã xong, nhưng chưa thanh toán với đơn vị cho thầu;
- Chi phí xây lắp vào khối lượng
xây dựng cơ bản dở dang(thi công chưa xong hoặc bị đình chỉ)
-Tiền gửi Ngân hàng về vốn xây dựng
cơ bản.;
- Các khoản phải thanh toán.
c)Các đơn vị kiến thiết cơ bản
tự làm phải kiểm kê toàn bộ tài sản như đối với đơn vị kiến thiết cho thầu
và đối với xí nghiệp xây lắp.
3.- Các
đơn vị cơ quan hành chính, cơ quan sự nghiệp phải kiểm kê:
a) Về tài sản cố định:
- Tài sản cố định đang dùng;
- Tài sản cố định chưa dùng.
b) Về các loại tài sản thuộc
kinh phí hành chính, sự nghiệp:
- Nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu dùng để nghiên cứu, thí nghiệm, sản xuất thử;
- Vật rẻ tiền mau hỏng;
- Vật liệu chế biến và các loại
súc vật thí nghiệm;
- Sản phẩm tự chế;
- Tiền quỹ;
- Tiền gửi Ngân hàng và các khoản
phải thanh toán.
B. Giá trị
tài sản tính như sau:
- Tài sản cố định, tính theo
nguyên giá, số đã trích khấu hao, giá còn lại;
- Nguyên vật liệu, vật rẻ tiền
mau hỏng, vật bao bì, phụ tùng sửa chữa….tính theo giá nhập kho;
-Sản phẩm dở dang, thành phẩm,
tính theo giá nhập kho;
- Hàng hóa của ngành thương nghiệp,
tính theo giá mua và giá bán lẻ;
- Khối lượng xây dựng cơ bản
tính theo giá dự toán và giá thành thực tế;
- Thiết bị toàn bộ, tính theo
giá nhập của ngoại thương;
- Tài sản chưa có giá, thì đơn vị
cơ sở căn cứ vào giá của thứ tài sản cùng loại, cùng công dụng, cùng phẩm chất
mà định giá; nếu không có chung loại tương đương thì đề nghị Ủy ban Vật giá Nhà
nước quy định.
C. Việc kiểm
kê tài sản về mặt hiện vật phải bao gồm các yếu tố:
- Số lượng, chất lượng thiết bị máy
móc hiện đang sử dụng, công suất thiết kế và công suất thực tế;
- Số lượng thiết bị máy móc tồn
kho, chưa sử dụng công suất và tình trạng;
- Số lượng, chất lượng vật tư,
hàng hóa tồn kho;
- Số lượng, chất lượng thành phần
chưa tiêu thụ(thiết bị máy móc, vật tư, hàng hóa)của các đơn vị sản xuất;
- Số lượng, chất lượng,thiết bị
máy móc, vật tư, hàng hóa ứ đọng cần điều đi, bị thiệt hại trong chiến tranh.
D. Đối với các
tài sản bị thiệt hại trong chiến tranh, các ngành và địa phương đã báo cáo tình
hình thiệt hại theo nghị định của Hội đồng Chính phủ số 115-CP ngày 29-6-1966
và quyết định của Tổng cục Thống kê số 735- TCTK-TH ngày 5-8-1966, nhưng chưa đầy
đủ. Trong đợt tổng kiểm kê này, các ngành và địa phương cần tiếp tục bổ sung
báo cáo cho đầy đủ. Sau khi nắm chắc tình hình tài sản bị thiệt hại trong chiến
tranh và lập các hồ sơ cần thiết thì phải tiến hành xử lý và thanh lý để giải
quyết dứt điểm theo quyết định của Hội đồng Chính phủ số 77- Cp ngày 18-4-1973.
IV. PHƯƠNG
PHÁP KIỂM KÊ VÀ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC SẢN XUẤT
1.
Các đơn vị cơ sở, các ngành, các cấp phải chấp hành
đúng phương pháp kiểm kê đã quy định trong chế độ cụ thể là:
a) Trước khi kiểm kê:
- Bộ phận kế toán phải ghi đầy đủ
các chứng từ kế toán vào sổ sách và đối chiếu sổ sách, bảo đảm số dư trong sổ
phân loại chung và số dư trong các số phân loại chi tiết được chính xác, cung cấp
số liệu cho Ban chỉ đạo tổng kiểm kê đối chiếu với số liệu kiểm kê.
- Từng bộ phận của đơn vị quản
lý tài sản phải ghi đầy đủ các chứng từ vào sổ sách nghiệp vụ của mình, phải sắp
xếp đầy đủ tài liệu chứng từ cho ngăn nắp, bảo đảm các chứng từ nhập, xuất đã
giao cho kế toán đều được ghi vào thể tài sản và sổ sách.
- Các tài khoản đều phải sắp xếp
theo từng chủng loại, quy cách cụ thể vào từng địa điểm theo quy hoạch; các tài
sản để rãi rác (nếu có thể) cũng phải đưa về sắp xếp có trật tự vào từng địa điểm
theo quy hoạch bảo đảm dễ thấy, dễ đếm , dễ cân đo; các tài sản như than, cát,
đá, sỏi v.v…phải chất đống đúng quy cách để khi kiểm kê dùng công thức tính
toán được dễ ( nếu chất đống không đúng quy cách thì phải sửa lại rồi mới kiểm
kê).
b) Trong khi kiểm kê:
- Phải xác định hiện vật bằng
cách cân, đo, đong, đếm thực tế tại chỗ và lập phiếu kiểm kê tài sản có đến
ngày kiểm kê, đối chiếu với số phải có ghi trên sổ sách của bộ phận kế
toán và các bộ phận có liên quan, xác định số chênh lệch, xác định phẩm chất,
phân tích nguyên nhân; đối với tài sản cố định phải ghi rõ vào phiếu kiểm kê số
phụ tùng, phụ kiện kèm theo nếu có, đồng thời dựa vào cán bộ kỹ thuật và công
nhân lành nghề xác định hiện trạng kỹ thuật để có thể sơ bộ đánh giá năng lực
còn lại nhằm có biện pháp sửa chữa, thay thế, bổ sung.
- Phải lập phiếu kiểm kê tài sản;
phiếu kiểm kê phải ghi đúng danh mục tài sản và đơn vị đo lường theo các bảng
danh mục tài sản của xí nghiệp mà kế toán đã dùng để ghi sổ. Phiếu kiểm kê phải
do toàn tổ kiểm kê và những người tham dự kiểm kê cùng ký tên; khi đã lập
xong phiếu kiểm kê, nếu có sửa chữa phải trao đổi thống nhất trước khi sửa và
xác nhận vào phiếu hoặc bản phụ kèm theo.
- Tài sản nguyên đai, nguyên kiện
phải kiểm tra niêm phong, đai buộc, cặp chì v.v…nếu có nghi ngờ thì chọn một số
kiện tháo ra, kiểm kê điển hình.
- Tài sản đưa gia công hoặc cho
thuê mượn, chủ tài sản phải kiểm kê, chịu trách nhiệm tổng hợp; đơn vị nhận
gia công hoặc thuê mượn phải báo cho chủ tài sản biết trước thời điểm kiểm kê.
- Tài sản đang đi trên đường thì
chủ tài sản phải báo cáo căn cứ vào sổ sách hóa đơn. Các đơn vị vận tải phải
báo cáo số lượng tài sản nhận vận chuyển có đến 0 giờ ngày 1-10-1973 cho chủ
tài sản; ở một số đầu mối giao thông quan trọng, đơn vị vận tải còn phải báo
cáo cho Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê.
- Tài sản để rãi rác ngoài khu vực
đơn vị quản lý phải có kí hiệu kiểm kê và đều phải ghi rõ kí hiệu và ngày kiểm
kê của đơn vị mình vào tài sản.
c) Trong khi hoặc ngay khi kiểm
kê:
- Phải phát hiện các tài sản thừa
thiếu, hao hụt, mất mát ( đối chiếu với sổ sách), xây dựng tình hình chất lượng,
nhận xét về giá trị, vạch rõ các ưu khuyết điểm về mặt bảo quản tài sản và quản
lý vốn, tìm nguyên nhân, quy trách nhiệm.
- Phải chỉ định người trông coi,
đồng thời trực tiếp liên hệ với Ủy ban Hành chính xã, khu phố bàn bạc nơi đề
phương án bảo vệ các tài sản để rãi rác ở dọc đường, gữi nhà dân, ngoài khu vực
quản lý ; nếu không có người trông coi thì cần nhờ Ủy ban địa phương trông coi,
bảo quản; đến ngày 15 tháng 10 năm 1973, nếu phát hiện có tài sản không
kiểm kê, không có kí hiệu thì coi như vô chủ và Ủy ban Hành chính địa phương có
nhiệm vụ thu xếp trông coi và báo cáo lên Ủy ban Hành chính tỉnh, thành phố để Ủy
ban Hành chính tỉnh, thành phố tổng hợp báo cáo cho Bộ Tài chính và Tổng
cục Thống kê.
Chú thích: Những tài sản
nào đã kiểm kê vào thời điểm 1 tháng 7 năm 1973, không có biến động và
bảo đảm chính xác thì đến thời điểm 1 tháng 10 năm 1973 không phải kiểm
kê theo đúng phương pháp nói trên.
2. Việc
đánh giá năng lực sản xuất của từng đơn vị cơ sở, từng ngành và địa phương rất
quan trọng là mục tiêu cơ bản của cuộc tổng kiểm kê kỳ này:
a) Đối với thiết bị máy móc,
ngay khi kiểm kê phải dựa vào cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để đánh
giá năng lực sản xuất của từng máy, từng dây chuyền sản xuất.
b) Đối với năng lực sản xuất của
xí nghiệp , cần sử dụng kết hợp tài liệu của cuộc tổng kiểm kê tài sản ngày
1-10-1973 , tài liệu của cuộc điều tra lao đông 1-7-1973 và tình hình cụ thể của
xí nghiệp để nghiên cứu, phân tích nguyên nhân, xác định rõ khâu nào mất cân đối,
vấn đề gì trở ngại cho việc phát huy năng lực sẵn có, cần bổ sung gì, muốn nâng
cao năng lực sản xuất thì cần phải có những biện pháp gì( như sửa chữa bổ sung
thiết bị, cung cấp vật tư, công nhân kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật, cân đối dây
chuyền sản xuất) và có kiến nghị gì với Bộ chủ quản, với Nhà nước.
Để làm tốt việc này , giám đốc
xí nghiệp phải giao trách nhiệm cho cán bộ môn kỹ thuật và nghiệp vụ xây dựng
phương án, phát huy năng lực sản xuất của xí nghiệp , rồi đưa ra hội nghị công
nhân, viên chức( hoặc hội nghị đại biểu công nhân, viên chức) tham gia ý kiến,
vừa để xây dựng phương án vừa để bàn biện pháp thực hiện phương án.
Các ngành và địa phương căn cứ
vào nhiệm vụ sản xuất , mục tiêu phấn đấu nâng cao năng lực sản xuất , dự kiến
kế hoạch 1974-1975 mà đề xuất cho cơ sở phương hướng và nội dung cụ thể để đánh
giá và phát huy năng lực sản xuất ; phải phân công cho các Vụ kỹ thuật , Vụ kế
hoạch chịu trách nhiệm hướng dẫn, cử cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm giúp
các cơ sở trọng điểm làm tốt việc này ; phải thiết thực giúp xí nghiệp giải quyết
các khó khăn trong sản xuất,kinh doanh.
c) Đối với từng ngành kinh
tế- kỹ thuật(sản xuất, xây dựng, vận tải, cung ứng vật tư v.v..) các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và Ủy ban Hành chính tỉnh,
thành phố dựa vào báo cáo của các đơn vị cơ sở , dựa vào các cơ quan tổng hợp để
so sánh phân tích, tổng hợp toàn ngành, phát hiện các khâu yếu nhất, các vấn đề
cấp bách cần và có điều kiện giải quyết sớm, nhằm nâng cao trình độ sản xuất và
quản lý toàn ngành.
V. TỔ CHỨC CHỈ
ĐẠO THỰC HIỆN.
I. Các Bộ, cơ
quan ngang Bộ ,cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và Ủy ban Hành chính tỉnh,
thành phố và các đơn vị cơ sở phải kết hợp với các công việc cấp bách khác, tập
trung chỉ đạo, tập trung một lực lượng cán bộ quản lý,cán bộ kỹ thuật và công
nhân cần thiết để làm tốt cuộc tổng kiểm kê, đáp ứng với mức cố gắng cao
nhất yêu cầu của việc chỉ đạo và quản lý kinh tế ngay từ ở đơn vị cơ sở.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ ,cơ
quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ , phải thành lập Ban chỉ đạo tổng kiểm kê do
một đồng chí thủ trưởng phụ trách; các bộ phận kế hoạch, kỹ thuật, tài vụ, thống
kê, cung tiêu v.v…đều phải tham gia phục vụ cuộc tổng kiểm kê.
Ở các tỉnh, thành phố, phải
thành lập Ban chỉ đạo tổng kiểm kê do đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch Ủy
ban Hành chính phụ trách, các ngành tham gia là thống kê, tài chính, kế hoạch,
Ngân hàng v.v…
Ban chỉ đạo điều tra và thanh
lý tài sản của Chính phủ giúp Hội đồng Chính phủ chỉ đạo công tác điều tra,
hướng dẫn kế hoạch tổng kiểm kê ; có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra và đôn đốc
các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở thực hiện, bảo đảm yêu cầu và hoàn
thành công việc đúng thời hạn; phải định kỳ phản ánh tình hình cho Thủ tướng
Chính phủ ; phải nghiên cứu và phân tích tình hình sử dụng tài sản của Nhà nước
ở các ngành, các cấp, kiến nghị các chủ trương và biện pháp phát huy năng lực sản
xuất và tăng cường quản lý các mặt, báo cáo Hội đồng Chính phủ vào cuối
tháng 12 năm 1973.
Các ngành là thành viên trong
Ban điều tra và thanh lý tài sản của Chính phủ phải bố trí lực lượng cán bộ cần
thiết, phát huy chức năng của mình để bảo đảm các yêu cầu, mục tiêu, của cuộc tổng
kiểm kê , nhất là ba ngành có vai trò nòng cốt trong Ban là Tổng cục Thống kê,
Bộ Tài chính, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Tổng cục Thống kê có nhiệm
vụ ban hành các biểu mẫu, điều tra và kiểm kê, hướng dẫn nghiệp vụ cho
các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở, tổ chức nắm tình hình, tổng hợp số
liệu( cả hiện vật và giá trị ), phối hợp với Bộ Tài chính phân tích và nhận xét
tình hình tài sản Nhà nước ở các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở và đề
ra biện pháp chấn chỉnh công tác quản lý.
Bộ Tài chính có nhiệm vụ cùng Tổng
cục Thống kê quy định những nguyên tắc kiểm kê ; kiểm tra tình hình tài sản của
các ngành phát hiện những khả năng tiềm tàng, kiến nghị biện pháp sử dụng
và phát huy; nhận xét về tình trạng thừa, thiếu, mất mát, hư hỏng v.v… chỉ đạo
việc xử lý và thanh lý nhằm chấn chỉnh công tác quản lý.
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và hệ
thống kế hoạch các ngành, các địa phương,các đơn vị cơ sở phải tích cực tham
gia công tác điều tra năng lực sản xuất và tổng kiểm kê tài sản, góp ý kiến nhận
xét về các mặt , kịp thời khai thác và sử dụng các tài liệu về điều tra,
kiểm kê để đánh giá năng lực sản xuất và đề ra những chủ trương , biện pháp huy
động những năng lực ấy mốt cách có hiệu quả trong kế hoạch 1974-1975.
Bộ Vật tư tổng hợp, phân tích
tình hình cung ứng và quản lý vật tư đề ra biện pháp phát huy năng lực,
chấn chỉnh công tác quản lý vật tư.
Ủy ban Khoa học và kỹ thuật
Nhà nước tổng hợp, phân tích tình hình thiết bị máy móc, nghiên cứu khoa học
kỹ thuật, đề ra biện pháp phát triển công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
2. Các bước
công tác gồm:
a) Bước chuẩn bị( từ nay
đến cuối tháng 8 năm 1973):
- Phủ Thủ tướng mở hội nghị phổ
biến chỉ thị, phương án và biểu mẫu kiểm kê cho các ngành, địa phương và một số
xí nghiệp trọng điểm của Trung ương.
- Tiếp đó các ngành, các địa
phương, căn cứ vào chỉ thị phương án kiểm kê của , quy định cụ thể phương án kiểm
kê của ngành, địa phương phổ biến cho tát cả các đơn vị cơ sở.
- Các đơn vị cơ sở phải: sắp xếp
lại kho tàng, chuẩn loại tài sản , chuẩn bị các phương tiện cần thiết cho kiểm
kê như dụng cụ đo lường, phương tiện vận chuyển, bốc xếp…; xem xét lại toàn bộ
sổ sách kế toán, thẻ phiếu các loại, tiến hành bổ sung nếu thiếu, cập nhập sổ
sách, đối chiếu chứng từ, để tìm ra số phải có trên sổ sách.
b) Bước tiến hành kiểm kê(từ
cuối tháng 8 đến 1 tháng 10 năm 1973):
Chuẩn bị xong, các đơn vị tiến
hành kiểm kê ngay cho kịp và đến thời điểm 9 giờ ngày 1 tháng 10 năm 1973 thì
khóa sổ, chỉnh lý tài liệu. Kiểm kê đến đâu, phải lập phiếu kiểm kê, có đánh dấu
nhận xét, làm dứt điểm từng kho, từng khu vực, từng loại tài sản ; tránh kiểm
kê tràn lan, không đánh giá ,nhận xét, gây khó khăn cho việc tổng hợp và
xử lý sau này).
c) Bước tổng hợp, báo cáo(
từ đầu tháng 10 đến giữa tháng 10 đối với đơn vị cơ sở, và đến giữa tháng 11
năm 1973 đối với các ngành ở Trung ương và địa phương ).
Bước này rất quan trọng cho việc
phát huy năng lực sản xuất, cần được coi là tập trung lãnh đạo để nhận xét đánh
giá toàn bộ về tài sản, cân đối các mặt, có biện pháp cụ thể đẩy mạnh sản xuất,
kinh doanh.
3. Chế độ báo
cáo:
a) Trong kỳ tổng kiểm kê này,
ngoài việc dựa vào các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính
phủ và Ủy ban Hành chính tỉnh, thành phố để tổng hợp số liệu và tình hình , Ban
chỉ đạo điều tra và thanh lý tài sản của Chính phủ và Tổng cục Thống kê sẽ
trực tiếp tổng hợp từ cơ sở để có tài liệu cụ thể nghiên cứu, phân tích và đánh
giá năng lực sản xuất một số ngành chủ yếu kịp trình Chính phủ và tháng 12 năm
1973. Việc tổng hợp số liệu được cơ giới hóa , do đó việc ghi báo số liệu phải
chính xác, đúng phương pháp tính tóan, đúng trật tự danh mục, đơn vị tính, chữ
số cần rõ ràng để thuận tiện cho công tác tổng hợp bằng máy tính.
b) Thời gian tổng hợp , báo cáo
phải được nghiêm chỉnh chấp hành để phát huy hiệu quả phục vụ kịp thời việc xây
dựng kế hoạch năm 1974-1975.
- Các cơ sở phải làm báo cáo tổng
kiểm kê và phân tích, đánh giá năng lực sản xuất và gửi trứơc ngày 15 tháng 10
năm 1973, cho Ban chỉ đạo điều tra và thanh lý tài sản của Chính phủ ,Tổng cục
Thống kê và Bộ chủ quản ( nếu là đơn vị cơ sở Trung ương)hoặc Ban chỉ đạo kiểm
kê tỉnh, thành phố và ty chủ quản ( nếu là đơn vị cơ sở của địa phương).
- Ban chỉ đạo thuộc tổng kiểm kê
các ngành và các địa phương tổng hợp số liệu, tình hình và báo cáo phân tích,
đánh giá năng lực sản xuất và gửi cho Ban chỉ đạo điều tra và thanh lý tài sản
của Chính phủ và Tổng cục Thống kê trước ngày 15tháng 11 để kịp trình Chính phủ
vào tháng 12 năm 1973.
- Ngoài ra Ban chỉ đạo điều tra
và thanh lý tài sản của Chính phủ cần quy định chế độ báo cáo nắm tình hình thực
hiện tổng kiểm kê, để theo dõi sát và chỉ đạo chặt chẽ.
c) Báo cáo tổng kiểm kê, ngoài
phần đánh giá và phân tích, phân số liệu phải bao gồm những nội dung sau:
- tổng hợp toàn bộ tài sản bằng
giá trị,
- số lượng, chất lượng một số
thiết bị máy móc, vật tư và hàng tiêu dùng chủ yếu theo danh mục do Tổng cục Thống
kê quy định,
- danh mục, giá trị và thực trạng
những công trình thiết bị tòan bộ chưa xâp lắp.