Chỉ thị 02-TANDTC/CT năm 1963 hướng dẫn xử lý tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây tai nạn làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, đến sức khoẻ và sinh mạng của những người lao động tại các công trường, nhà máy, hầm mỏ, kho tàng... do Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao ban hành
Số hiệu | 02-TANDTC/CT |
Ngày ban hành | 29/04/1963 |
Ngày có hiệu lực | 29/04/1963 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao |
Người ký | Nguyễn Trác |
Lĩnh vực | Trách nhiệm hình sự |
HỘI
ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 02-TANDTC/CT |
Hà Nội, ngày 29 tháng 4 năm 1963 |
Trong thời kỳ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa hiện nay, các cơ sở sản xuất và số lượng công nhân ngày càng phát triển, máy móc thiết bị ngày thêm tinh vi và lao động ngày thêm phức tạp, nên vấn đề bảo vệ an toàn lao động cần được đặc biệt coi trọng. Nhằm thực hiện khẩu hiệu "sản xuất phải an toàn, an toàn để sản xuất",Nhà nước đã ban hành những luật lệ, quy tắc về an toàn lao động nhưng trong thực tế, tại các cơ sở sản xuất vẫn còn những hiện tượng thiếu tinh thần trách nhiệm, không chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật lao động, làm bừa, làm ẩu, gây tai nạn làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, đến sức khỏe và sinh mạng của người lao động, ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch nhà nước.
Trong mấy năm gần đây, các tòa án đã nhận thức được nhiệm vụ tích cực góp phần đấu tranh chống những hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm đó. Nhiều vụ án đã được xét xử kịp thời và thận trọng, mức hình phạt được cân nhắc kỹ càng, nhiều phiên tòa được tổ chức ngay tại công trường, xí nghiệp, cho nên việc xét xử đã có tác dụng giáo dục phòng ngừa tai nạn.
Tuy nhiên, trong việc định tội và quyết định hình phạt, thực tiễn xét xử đã cho thấy một số lệch lạc cần được uốn nắn để việc nhận thức luật pháp và áp dụng luật pháp được thống nhất hơn nữa.
1. Có tòa án vì không đi sâu vào nội dung vụ án, nhất là không đi sâu vào thái độ tâm lý của bị can, cho nên đã không phân biệt chính xác trường hợp cố ý gây tai nạn (phá hoại) với trường hợp khinh suất gây tai nạn (thiếu tinh thần trách nhiệm).
2. Có tòa án đã coi hành vi khinh suất gây tai nạn của người không có trách nhiệm công tác là tội thiếu tinh thần trách nhiệm và áp dụng điều 10 Sắc lệnh 267 ngày 15-6-1956, đáng lẽ phải áp dụng điều 4 Thông tư 442-TTg.
3. Có nơi còn chưa phân biệt được hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng, phải coi là một tội phạm, với hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại nhỏ, chỉ cần thi hành kỷ luật hành chính, cho nên có trường hợp đáng lẽ phải xử lý bằng biện pháp tòa án lại áp dụng biện pháp hành chính, hoặc ngược lại.
4. Một số tòa án chưa nhận định được đúng đắn trách nhiệm hình sự của người cán bộ phụ trách không trực tiếp gây tai nạn, cho nên có trường hợp có tội đáng trừng trị đã bỏ qua hoặc ngược lại có trường hợp kết tội và xử phạt một cách gò ép, vô căn cứ.
5. Có tòa án còn lẫn lộn trường hợp phạm tội với trường hợp không thể coi là phạm tội vì tai nạn xảy ra do sự kiện bất ngờ mà bị can không thể nào lường trước được.
6. Một số tòa án, trong khi định mức hình phạt, quá chú trọng đến lý lịch của bị can, do đó hoặc chiếu cố quá đảng tới thành tích của bị can, mặc dù tác hại nghiêm trọng mà lại xử phạt quá nhẹ, hoặc thành kiến với quá khứ xấu của bị can, mặc dù tác hại nhỏ, lại xử phạt quá nặng.
Để xét xử đúng đắn loại tội phạm này, cần nhận thức rằng, dưới chế độ ta, mọi hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm gây tai nạn làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và sinh mạng của người lao động, đều cần phải xử lý thích đáng. Mặt khác, cũng phải thấy rõ hoàn cảnh của ta hiện nay là khả năng và trình độ kỹ thuật của cán bộ, công nhân viên còn non kém, điều kiện bảo hộ lao động và những luật lệ, quy tắc an toàn lao động còn chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình sản xuất, cho nên tai nạn lao động xảy ra nhiều và có những nguyên nhân phức tạp.
Đường lối xử lý những hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm phải bảo đảm tác dụng đấu tranh chống phạm tội, đồng thời phải chú ý tới những đặc điểm và những nguyên nhân phức tạp của loại tội phạm này.
Căn cứ vào đường lối, chính sách trên và luật pháp hiện hành, Tòa án nhân dân tối cao nêu những điểm chỉ dẫn dưới đây để các tòa án địa phương chú ý:
1. Khi xét xử tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây tai nạn phải chứng minh đầy đủ ba dấu hiệu bắt buộc dưới đây:
- Tai nạn xảy ra do khinh suất;
- Bị can phải là người có trách nhiệm công tác và đã gây tai nạn trong công tác;
- Sự thiệt hại phải nghiêm trọng.
a) Tai nạn xảy ra do khinh suất.
Một dấu hiệu bắt buộc để phân biệt tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây tai nạn với tội phá hoại là: trong tội phá hoại, bị can đã cố ý mong muốn tai nạn xảy ra, còn trong tội thiếu tinh thần trách nhiệm, tai nạn xảy ra ngoài ý muốn của bị can và là hậu quả của hành vi khinh suất.
Sẽ coi là khinh suất, nếu:
- Bị can đã thấy trước khả năng xảy ra tai nạn nhưng vì chủ quan, thiếu thận trọng, quá tin vào những biện pháp phòng ngừa của mình cho nên đã để xảy ra tai nạn. Ví dụ: Một công nhân đã được giải thích về tính chất nguy hiểm của việc đào đất theo kiểu hàm ếch nhưng cứ làm theo ý mình, cho rằng đất nơi đó rắn. Sau đó, hầm bị sập làm chết người. (Hình thức lỗi ở đây là khinh suất vì quá tự tin).
- Bị can không thấy trước khả năng xảy ra tai nạn nhưng đáng lẽ phải thấy và có thể thấy trước khả năng đó, để có những biện pháp phòng ngừa thích đáng. Ví dụ: Hai công nhân Hồng và Vượng cùng làm máy, vì không kiểm tra kỹ, Hồng không biết rằng Vượng còn đang ở dưới gầm máy, đã cho máy chạy. Hậu quả của hành vi làm bừa, làm ẩu này là Vượng không chạy kịp bị máy kẹp chết. (Hình thức lỗi ở đây là khinh suất vì cẩu thả). Để nhận định thế nào là bị can phải thấy và có thể thấy trước khả năng xảy ra tai nạn, các tòa án cần chú ý đi sâu vào cương vị công tác, trình độ hiểu biết kỹ thuật, khả năng trí tuệ, kinh nghiệm lao động của bị can... và cần xét xem trong trường hợp tương tự, một người bình thường, nếu có thái độ làm việc thận trọng, có thể tránh được tai nạn hay là không.
Việc xác định đúng đắn hình thức lỗi: cố ý hoặc khinh suất, đòi hỏi phải xem xét một cách toàn diện mọi tình tiết của vụ án, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ và khi cần thiết phải trưng cầu giám định viên kỹ thuật để kết luận về nguyên nhân của tai nạn. Cần tránh khuynh hướng chỉ dựa đơn thuần vào lý lịch của bị can hoặc vào lời khai để nhận định.
b) Bị can phải là người có trách nhiệm công tác và đã gây tai nạn trong công tác. Đó là:
- Những cán bộ có trách nhiệm về công tác bảo hộ lao động như giám đốc xí nghiệp, người điều khiển hoặc ra lệnh công tác, cán bộ được uỷ nhiệm phụ trách bảo vệ an toàn lao động (điều 2 Nghị định 703-TTg ngày 29-2-1956).
- Những cán bộ, công nhân, viên chức khác, do không làm tròn công tác mình phụ trách đã để xảy ra tai nạn (như một công nhân không chấp hành nghiêm chỉnh nội quy an toàn).