Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Báo cáo tổng kết 35-BC/CCTP năm 2014 về 8 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 do Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp ban hành

Số hiệu 35-BC/CCTP
Ngày ban hành 12/03/2014
Ngày có hiệu lực 12/03/2014
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp
Người ký Lê Thị Thu Ba
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
BAN CHỈ ĐẠO CẢI CÁCH TƯ PHÁP
--------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------

Số: 35-BC/CCTP

Hà Nội, ngày 12 tháng 3 năm 2014

 

BÁO CÁO TỔNG KẾT

8 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 49-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐẾN NĂM 2020

Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” (sau đây gọi tắt là Chiến lược cải cách tư pháp) là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng. Qua 8 năm thực hiện đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều nhiệm vụ của Chiến lược cải cách tư pháp chưa thực hiện được, trong đó có một số nhiệm vụ chưa được sự đồng thuận cao. Hoạt động của các cơ quan tư pháp vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã “giao Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành tổng kết toàn diện việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp…".[1] Thực hiện ý kiến chỉ đạo nêu trên, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành Kế hoạch tổng kết, thành lập Tổ công tác liên ngành triển khai thực hiện Kế hoạch; hướng dẫn các tỉnh uỷ, thành ủy, các cơ quan, tổ chức có liên quan ở Trung ương tiến hành tổng kết, báo cáo kết quả về Ban Chỉ đạo (có 63/63 tỉnh uỷ, thành ủy và 12/13 cơ quan ở Trung ương gửi báo cáo); chỉ đạo việc nghiên cứu xây dựng 09 báo cáo chuyên đề; tổ chức 10 đoàn công tác đi khảo sát, kiểm tra đánh giá tình hình triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp tại 14 tỉnh, thành phố và một số cơ quan, tổ chức có liên quan ở Trung ương; tổ chức hội thảo khoa học về phương pháp, tiêu chí đánh giá tổng kết Chiến lược...

Ban Chỉ đạo đã xây dựng Dự thảo báo cáo tổng kết, tổ chức Hội nghị lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện lãnh đạo các tỉnh ủy, thành ủy, các cơ quan, tổ chức có liên quan. Nhìn chung, việc tổng kết Chiến lược cải cách tư pháp đã được thực hiện đúng yêu cầu, khách quan, toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Tại phiên họp ngày 18-12-2013, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến hoàn thiện Dự thảo Báo cáo trình Bộ Chính trị. Báo cáo tổng kết gồm 3 phần: Thứ nhất là, kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp; Thứ hai là, đánh giá tổng quát về ưu điểm, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, những yêu cầu đặt ra cần hoàn thiện Chiến lược cải cách tư pháp; Thứ ba là, kiến nghị bổ sung, điều chỉnh Chiến lược và trách nhiệm tổ chức thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới.

PHẦN THỨ NHẤT

KIỂM ĐIỂM, ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP

I. Tình hình quán triệt, triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp

Sau khi Chiến lược cải cách tư pháp được ban hành, Bộ Chính trị (khóa IX) đã chỉ đạo tổ chức hội nghị toàn quốc (gồm lãnh đạo các tỉnh ủy, thành ủy và đại diện cấp ủy, tổ chức đảng, thủ trưởng các cơ quan, tổ chức có liên quan ở Trung ương) để quán triệt, triển khai thực hiện. Phần lớn đại biểu tham dự hội nghị đều đánh giá cao nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp. Cho rằng: Chiến lược cải cách tư pháp đã kế thừa, phát huy những thành tựu của Nghị quyết số 08-NQ/TW; tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương, đường lối về cải cách tư pháp nêu trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng; cập nhật được yếu tố tiến bộ của nền tư pháp các nước phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhiều đại biểu bày tỏ sự phấn khởi, tin tưởng Chiến lược cải cách tư pháp sẽ đem lại những chuyển biến tích cực trong hoạt động tư pháp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Căn cứ vào mục tiêu, quan điểm, phương hướng và nhiệm vụ của Chiến lược cải cách tư pháp, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành các chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp của từng nhiệm kỳ và hàng năm; chỉ đạo xây dựng nhiều đề án để triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể; định kỳ báo cáo tình hình, kết quả với Bộ Chính trị. Cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp ở Trung ương (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an) và các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương đều thành lập Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp[2] để chỉ đạo thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp tại cơ quan, tổ chức, địa phương mình. Phần lớn Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp các Bộ, ngành, địa phương đều xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện và báo cáo kết quả với cấp ủy, tổ chức đảng cùng cấp và Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương.

Bộ Chính trị đã tổ chức nhiều phiên họp nghe báo cáo, cho ý kiến chỉ đạo việc triển khai thực hiện và sơ kết việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong từng giai đoạn (tiến hành sơ kết 3 năm và sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp). Trong nhiệm kỳ 2006-2011, Bộ Chính trị khóa X đã thông qua Đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra theo tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp[3]; chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật thể chế hoá các chủ trương, chính sách về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp và hoạt động bổ trợ tư pháp. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XI (năm 2011) đến nay, Bộ Chính trị đã có 05 phiên họp chuyên đề về cải cách tư pháp, cho ý kiến về một số vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số nhiệm vụ quan trọng ý kiến khác nhau chưa được xem xét, kết luận cụ thể, chậm thực hiện.

II. Về hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp

Từ tháng 6/2005 đến tháng 6/2013, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành mới và sửa đổi, bổ sung 63 luật, pháp lệnh, nghị quyết về các lĩnh vực hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp và tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp. Chính phủ, các cơ quan tư pháp Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện.

1. Trong lĩnh vực hình sự

Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã bãi bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh, thay đổi biện pháp thi hành án tử hình, quy định rõ việc không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền, hạn chế áp dụng hình phạt tù đối với một số tội, áp dụng mức án nhẹ hơn đối với người chưa thành niên phạm tội (so với người đã thành niên); không áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội; bỏ một số tội danh ra khỏi Bộ luật hình sự.[4]

Đồng thời, đã điều chỉnh mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm về kinh tế và chức vụ. Bổ sung quy định về một số tội phạm mới như: khủng bố, tài trợ khủng bố, mua bán người, rửa tiền, chứng khoán, môi trường, công nghệ thông tin (13 tội).[5] Việc sửa đổi các quy định nêu trên đã thể chế đúng đắn chủ trương của Đảng nhằm tăng tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Luật đặc xá (năm 2007) được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đặc xá, khoan hồng những người cải tạo tốt, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người bị kết án phạt tù.

2. Trong lĩnh vực dân sự

Đã sửa đổi Bộ luật dân sự và ban hành một số văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương mại nhằm điều chỉnh các quan hệ theo hướng: tôn trọng quyền tự do kinh doanh, xác lập các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại; hạn chế sự can thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào các quan hệ này; hình thành cơ chế pháp lý bảo đảm thực thi tốt hơn quyền của các chủ thể trong giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại thúc đẩy các quan hệ phát triển lành mạnh; hoàn thiện các quy định pháp luật, bảo vệ tốt hơn các quyền về danh dự, nhân phẩm, uy tín, tính mạng, sức khỏe, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

3. Trong lĩnh vực tố tụng tư pháp

Đã ban hành, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện nhiều văn bản pháp luật về tố tụng[6]. Theo đó, đã phân định một bước thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng, tạo điều kiện cho thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên chủ động thực thi nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật [7]; quy định chặt chẽ căn cứ kháng nghị và trách nhiệm của người ra kháng nghị theo hướng hạn chế người có thẩm quyền kháng nghị, xác định rõ chỉ có chánh án tòa án, viện trưởng viện kiểm sát mới có quyền ra quyết định kháng nghị; quy định thời hạn kháng nghị dài hơn theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; quy định chặt chẽ việc nộp đơn, thụ lý và xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng đảm bảo quyền nộp đơn của người dân và đề cao trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; bổ sung thẩm quyền xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Thể chế hóa bước đầu chủ trương "xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định": Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định 01 chương về việc xét xử rút gọn một số trường hợp cụ thể với thời gian điều tra, truy tố, xét xử ngắn hơn thủ tục bình thường; Bộ luật tố tụng dân sự quy định thủ tục xét xử rút gọn đối với một số loại việc dân sự bởi 01 thẩm phán, không có Hội thẩm nhân dân tham gia. Chủ trương khuyến khích giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài đã được thể chế trong Luật Trọng tài thương mại với các quy định cụ thể, chặt chẽ về phạm vi giải quyết, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc thụ lý, thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; hiệu lực pháp luật của quyết định trọng tài; cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài. Luật Hòa giải ở cơ sở được ban hành đã quy định chặt chẽ về nguyên tắc, thủ tục, trình tự, tạo điều kiện cho người dân giải quyết các tranh chấp thông qua hòa giải cơ sở, góp phần giảm số vụ, việc tại tòa án nhân dân.

Thể chế hóa chủ trương mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân đối với các khiếu kiện hành chính: Luật tố tụng hành chính (năm 2010) đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính của tòa án; quy định điều kiện khởi kiện, thủ tục giải quyết vụ án rõ ràng, cụ thể hơn so với trước đây; tạo điều kiện để công dân được lựa chọn khởi kiện hoặc khiếu nại các quyết định, hành vi hành chính của các cơ quan, công chức hành chính; bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án. Luật xử lý vi phạm hành chính (năm 2012) đã chuyển giao thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp: đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục và cơ sở cai nghiện bắt buộc từ uỷ ban nhân dân sang toà án nhân dân. Đây là một tiến bộ mới, bảo đảm khách quan, minh bạch, đúng pháp luật, bảo vệ quyền con người. Chủ trương tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án nhân dân cấp huyện cũng đã được Quốc hội thể chế hóa và thực hiện thành công vào năm 2009 (từ 2004 - 2009). Một số tòa án nhân dân địa phương đã chú trọng việc đổi mới thủ tục hành chính trong hoạt động của mình góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có việc đến tòa án.

Nhìn chung, việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và tố tụng tư pháp đã được các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều chủ trương chưa được thể chế hóa đầy đủ, kịp thời như: tăng cường tranh tụng tại phiên tòa; phân định thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng; giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ; quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; xác định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam; hoàn thiện cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn; phát triển một số loại hình dịch vụ tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ; xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, các tổ chức đoàn thể trong giám sát hoạt động tư pháp… Việc chậm trễ này có nguyên nhân chủ quan của các bộ, ngành chưa kịp thời nghiên cứu đề xuất, nhưng cũng có nguyên nhân khác là do phải chờ sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

III. Về việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp

1. Đối với Tòa án nhân dân

Bỏ thẩm quyền xét xử sơ chung thẩm để đảm bảo thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét xử; tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện; tăng cường và nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa; mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính, đổi mới thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án. Tòa án nhân dân được xác định có vị trí trung tâm của hoạt động tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp; quy định bổ nhiệm thẩm phán theo ngạch sơ cấp, trung cấp thay cho việc bổ nhiệm theo cấp hành chính; áp dụng chính sách tiền lương và phụ cấp nghề, phụ cấp thâm niên cho các chức danh tư pháp ở tòa án; thực hiện lộ trình đổi mới về tổ chức hệ thống tòa án quân sự theo hướng giảm bớt đầu mối các tòa quân sự khu vực và quân, binh chủng; tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân từng bước được hoàn thiện, chất lượng xét xử được nâng lên, hạn chế việc xét xử oan, sai. Tòa án nhân dân tối cao đã tập trung nhiều hơn cho công tác tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có tiến bộ. Giao Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp của ngành Tòa án; công tác đào tạo, bồi dưỡng được quan tâm, tăng cường; xây dựng được cơ sở vật chất cho Trường đào tạo cán bộ Tòa án (chuẩn bị nâng cấp thành Học viện Tòa án) khang trang. Việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện đã giúp giải quyết được tình trạng tồn đọng án ở tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Đã chỉ đạo xây dựng phương án tổ chức hệ thống tòa án nhân dân theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính (Nghị quyết số 49-NQ/TW) và tổ chức tòa án gồm 4 cấp (Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010). Việc tổ chức tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực do còn nhiều ý kiến khác nhau nên Bộ Chính trị giao Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm một số vấn đề (Thông báo số 122-TB/TW ngày 25-2-2013). Ban Chỉ đạo đã tổ chức nghiên cứu và có báo cáo riêng về những vấn đề do Bộ Chính trị yêu cầu (Báo cáo số 32-BC/CCTP, ngày 30-12-2013).

Một số nhiệm vụ như: phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp...; đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, đảm bảo công khai, dân chủ, nghiêm minh; đổi mới mô hình tố tụng, nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa đang được Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp nghiên cứu xây dựng đề án. Quân ủy Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nhiều đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quân đội theo định hướng đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW.

Thực hiện nhiệm vụ nêu trên còn một số hạn chế sau: Việc xác định tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm chưa được nghiên cứu và xác định đầy đủ, chưa có cơ chế đảm bảo vai trò trung tâm của tòa án; tranh tụng tại phiên tòa được coi là khâu đột phá của cải cách tư pháp nhưng chưa được nghiên cứu xây dựng quy trình, cơ chế cụ thể; nhận thức của cán bộ tư pháp về tranh tụng chưa đầy đủ, toàn diện; việc tranh tụng còn hình thức, hiệu quả chưa cao. Vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân và mối quan hệ giữa Hội thẩm nhân dân với Thẩm phán trong quá trình xét xử các vụ án chưa được quy định cụ thể; hoạt động của Hội thẩm nhân dân còn mang tính hình thức, có xu hướng chuyên nghiệp hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân.

2. Đối với Viện kiểm sát nhân dân

[...]