VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 8244/BC-VPCP
|
Hà Nội, ngày 23
tháng 10 năm 2023
|
BÁO CÁO
ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ TRIỂN KHAI CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI
MỚI TRONG THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH, CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG PHỤC VỤ NGƯỜI
DÂN, DOANH NGHIỆP TẠI CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG
Kính
gửi: Thử tướng Chính phủ.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ; trên cơ sở tổng hợp báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, Văn
phòng Chính phủ báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình và kết quả triển khai
các giải pháp đổi mới trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công
phục vụ người dân, doanh nghiệp tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau:
I. TÌNH
HÌNH, KẾT QUẢ TRIỂN KHAI
1. Công tác
chỉ đạo, điều hành và hoàn thiện thể chế
a) Kết quả đạt được
Để triển khai các giải pháp đổi
mới trong thực hiện thủ tục hành chính, việc hoàn thiện thể chế tiếp tục được
quan tâm đẩy mạnh, nhất là thể chế phục vụ cho chuyển đổi số trong thực hiện thủ
tục hành chính, cung cấp dịch vụ công. Theo đó, nhiều cơ chế, chính sách, quy định
trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công tiếp tục được sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện như: Quốc hội đã ban hành Luật giao dịch điện tử; Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 45/2020/NĐ- CP về thực hiện thủ tục hành chính trên
môi trường điện tử, Nghị định số 107/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 61/2018/NĐ-CP về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
trong giải quyết thủ tục hành chính, Nghị định số 59/2022/NĐ-CP về xác thực, định
danh điện tử, Nghị định số 42/2022/NĐ-CP về cung cấp thông tin và dịch vụ công
trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng, Nghị định số
13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân; Văn phòng Chính phủ ban hành Thông tư
số 01/2023/TT-VPCP quy định một số nội dung biện pháp thi hành trong số hóa hồ
sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính và thực hiện thủ tục hành chính trên
môi trường điện tử; Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 13/2023/TT-BNV hướng dẫn lưu
trữ hồ sơ thủ tục hành chính điện tử; Hội đồng nhân dân 41/63 tỉnh, thành phố1 đã ban hành chính sách miễn
hoặc giảm phí, lệ phí trong thực hiện dịch vụ công trực tuyến,...
Công tác chỉ đạo, điều hành
cũng được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện. 100% các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đều đã kịp thời ban hành Kế hoạch, nhiều văn bản chỉ đạo triển khai
thực hiện đồng bộ các nội dung đổi mới việc thực hiện thủ tục hành chính, nâng
cao chất lượng phục vụ, mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Việc quán
triệt, tập huấn, hướng dẫn cho cán bộ, công chức, viên chức đã được nhiều bộ,
ngành, địa phương quan tâm tổ chức để triển khai 05 nội dung đổi mới trong thực
hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công tại bộ, ngành, địa phương. Đến
nay, có 51/852 Bộ, cơ
quan, địa phương (chiếm 60%) thực hiện việc sửa đổi, bổ sung Quy chế tổ chức hoạt
động của BPMC, quy chế Hệ thống tin giải quyết TTHC để bổ sung quy trình số hóa
trong việc tiếp nhận, giải quyết TTHC.
b) Hạn chế, tồn tại
- Chậm rà soát, sửa đổi các quy
định thủ tục hành chính tại các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành để bổ
sung thêm quy định phù hợp với việc chuyển từ phương thức tiếp nhận, giải quyết
thủ tục hành chính truyền thống, giấy tờ, trực tiếp sang trực tuyến, số hóa, sử
dụng dữ liệu; tư duy xây dựng quy định thủ tục hành chính trong dự án, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu vẫn theo phương thức giải quyết trực tiếp hoặc
qua bưu chính dẫn đến quá trình thực hiện chưa thực sự hiệu quả, còn gặp vướng
mắc về mặt thể chế, tính pháp lý, nhiều dịch vụ trực tuyến được cung cấp trên Hệ
thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh nhưng thực tế
chưa thuận lợi, vẫn phải tiếp nhận cả giấy và điện tử.
- Một số cơ chế, chính sách,
quy định về thực hiện thủ tục hành chính cần tiếp tục được rà soát, hoàn thiện
để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới như: Các định mức kinh tế - kỹ thuật,
quy định nội dung chi, mức chi cho số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục
hành chính; các quy định, hướng dẫn, định mức kinh tế - kỹ thuật làm cơ sở cho
việc tổ chức xã hội hóa trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính do bưu
chính công ích thực hiện; các quy định, tiêu chí rà soát phân cấp thực hiện thủ
tục hành chính,...
- Còn có hiện tượng “trên nóng,
dưới lạnh”, thực hiện theo phong trào, chưa có sự quan tâm, sát sao của người đứng
đầu, nhất là ở một số cơ quan, đơn vị trực thuộc bộ, ngành, sở, ngành, huyện,
xã ở địa phương để bảo đảm tính bền vững và thực chất của hoạt động cải cách,
cung cấp dịch vụ công.
2. Số hóa hồ
sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính
a) Kết quả đạt được
Số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết
thủ tục hành chính là một giải pháp quan trọng để đổi mới công tác thực hiện số
hóa dữ liệu trên cơ sở gắn kết trực tiếp với việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ,
công chức, viên chức trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính nhằm hình
thành cơ sở dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống”. Theo báo cáo của các bộ, địa phương3, đến nay, 67/76 bộ, ngành, địa
phương đã ban hành Kế hoạch số hóa kết quả giải quyết TTHC đang có hiệu lực
(chiếm tỷ lệ 88,2%); 100% cơ quan, đơn vị quan tâm nâng cấp, hoàn thiện Hệ thống
thông tin giải quyết TTHC, trong đó đã có 37/76 cơ quan, đơn vị (chiếm tỷ lệ
48,6%) đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chức năng, tính năng kỹ thuật theo hướng dẫn;
42/76 bộ, cơ quan, địa phương (chiếm 55,3%) đã xây dựng Kho quản lý dữ liệu điện
tử trên HTTT giải quyết TTHC; việc số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC đã được
triển khai ở 9.200/11.956 BPMC, chiếm 76,9% (8.364 BPMC địa phương, 836 BPMC
thuộc cấp bộ, cơ quan được tổ chức theo ngành dọc). Bên cạnh đó, tính đến tháng
10 năm 2023, Ban Cơ yếu Chính phủ đã đảm bảo cung cấp trên 715.000 chứng thư số
cho các bộ, ngành, địa phương trong cả nước, trong đó đối với cơ quan cấp bộ,
ngành, địa phương đã cấp 93 (đạt 100%) chứng thư số cho tổ chức và 407 (đạt khoảng
94.7%) chứng thư số cho lãnh đạo; đối với cấp cục, vụ, sở và tương đương đã cấp
5.198/5.318 (đạt khoảng 97.74%) chứng thư số cho tổ chức và 18.085 (đạt khoảng
98.33%) chứng thư số cho lãnh đạo; đối với địa phương, cấp xã đã cấp
10.462/10.614 (đạt khoảng 98,48%) chứng thư số cho tổ chức và 26.583 (đạt khoảng
71.55%) chứng thư số cho lãnh đạo; đã phối hợp, triển khai trên 58.000 thiết bị
SIM ký số trên thiết bị di động cho 30 bộ, ngành Trung ương và 63 địa phương để
phục vụ cho công tác số hóa. Tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục
hành chính có sự cải thiện rõ rệt, trong đó 9 tháng đầu năm 2023, tỷ lệ hồ sơ
được cấp kết quả giải quyết thủ tục hành chính điện tử các bộ, ngành đạt 24,48%
(tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2022), các địa phương đạt 38,94% (tăng 25,8% so
với cùng kỳ năm 2022); 63/63 địa phương đã thực hiện triển khai chứng thực bản
sao điện tử từ bản chính, cấp được hơn 3 triệu bản sao chứng thực điện tử; việc
chuyển từ hồ sơ giấy sang hồ sơ điện tử của cấp bộ đạt 81,39% (tăng 29,7% so với
cùng kỳ năm 2022), địa phương đạt 70,24% (tăng 31,4% so với cùng kỳ năm 2022),
góp phần xây dựng, đưa vào vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành
như: dân cư, bảo hiểm xã hội, đăng ký doanh nghiệp, hộ tịch điện tử, giấy phép
lái xe,... Một số bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt như: Bộ Công an, Bộ Tài
chính (Thuế, Hải quan), Bộ Giao thông vận tải (Quản lý phương tiện và người
lái), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Đăng ký doanh nghiệp), Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Quảng
Ninh, Hải Dương, Hà Nam, Bắc Giang, Bình Phước, Bình Dương, Thanh Hóa, Nam Định,
Quảng Bình, Bình Định, Lâm Đồng, Tây Ninh, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà
Mau,…
b) Hạn chế, tồn tại
- Quá trình tham gia số hóa của
các cán bộ, công chức, viên chức thẩm định, xử lý hồ sơ thủ tục hành chính còn
rất hạn chế, chủ yếu việc số hóa mới chỉ dừng lại ở sao chụp chuyển từ bản giấy
sang bản điện tử (hơn 56,7% hồ sơ của bộ, ngành và hơn 31,3% của địa phương)
nên không những chưa đảm bảo giá trị pháp lý của giấy tờ được số hóa, không thể
tái sử dụng, mà còn lãng phí nguồn lực số hóa, tốn kém tài nguyên lưu trữ.
- Việc triển khai chứng thực bản
sao điện tử từ bản chính ở một số địa phương còn chưa đầy đủ, toàn diện, mới chỉ
triển khai điểm ở một số Ủy ban nhân dân cấp xã, kết quả thực hiện còn rất thấp
như: Đắk Nông; Thành phố Hồ Chí Minh; Cao Bằng; Vĩnh Long; Ninh Thuận; Đắk Lắk;
Sơn La; Bạc Liêu; Bình Thuận; Thái Bình,…
- Nhiều giấy tờ, tài liệu đặc
thù chuyên ngành phải số hóa như: Bản vẽ kỹ thuật; bản đồ,... nhưng chưa có quy
định cụ thể, rõ ràng về cách thức số hóa phù hợp tại pháp luật chuyên ngành nên
việc triển khai thực hiện còn lúng túng, thiếu thống nhất, chưa hiệu quả, nhất
là ở các địa phương.
- Việc nâng cấp, hoàn thiện hệ
thống công nghệ thông tin, trang thiết bị phục vụ số hóa của một số bộ, ngành,
địa phương còn hạn chế, chưa kịp thời.
3. Đổi mới
tổ chức quản lý, kết nối, chia sẻ, sử dụng dữ liệu phục vụ giải quyết thủ tục
hành chính, cung cấp dịch vụ công
a) Kết quả thực hiện
Việc khai thác tài nguyên dữ liệu
phục vụ số hóa, tái cấu trúc quy trình, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành
chính theo hướng người dân, doanh nghiệp chỉ cung cấp thông tin một lần cho cơ
quan nhà nước đã được các bộ, ngành, địa phương quan tâm triển khai có hiệu quả
hơn và có một số kết quả nổi bật như:
- Thực hiện Đề án 06, 16 bộ,
ngành4 và 63/63 địa
phương đã hoàn thành kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư với Hệ thống thông tin giải quyết TTHC phục vụ giải quyết TTHC, cung cấp
dịch vụ công như: xác thực, định danh, bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy,…, trong
đó 09 tháng đầu năm 2023 đã thực hiện tiếp nhận và xử lý tra cứu, xác thực
thông tin cho 1,2 tỷ trường hợp, đồng bộ thông tin công dân cho 536 triệu trường
hợp, giúp tiết kiệm chi phí thực hiện các thủ tục kiểm tra xác minh, sao in hồ
sơ, giấy tờ tùy thân,…; đã tích hợp để thay thế thẻ Bảo hiểm y tế bằng Căn cước
công dân gắn chíp điện tử trong thực hiện thủ tục khám chữa bệnh tại 12.597 cơ
sở khám chữa bệnh, đạt 98,2%; thực hiện đồng bộ, làm sạch dữ liệu của hơn 91,2
triệu thông tin nhân khẩu giữa Cơ sở dữ liệu bảo hiểm xã hội với Cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư (trong đó có hơn 82,3 triệu người đang đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chiếm 94% tổng số người tham gia), tạo cơ
sở thuận lợi cho việc thực hiện các thủ tục hành chính lĩnh vực bảo hiểm xã hội;
đã thu nhận 64,3 triệu hồ sơ cấp định danh điện tử, kích hoạt trên 42 triệu tài
khoản, có 24 địa phương đã hoàn thành cấp tài khoản định danh điện tử để chuẩn
bị các điều kiện phục vụ cho việc sử dụng tài khoản VNeID trong giải quyết thủ
tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến theo quy định tại Nghị định số
59/2021/NĐ-CP,…
- Các dịch vụ công liên thông
điện tử được đẩy mạnh dựa trên kết nối, chia sẻ, liên thông dữ liệu giữa các cơ
quan nhà nước như: Dịch vụ công trực tuyến đăng ký, cấp biển số xe (dựa trên kết
nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan đăng kiểm, hải quan, thuế, công an giúp cắt
giảm được thủ tục xác nhận tờ khai nguồn gốc xe đối với xe nhập khẩu, giảm các
giấy tờ phải nộp, thông tin phải điền của chủ xe); dịch vụ công toàn trình Đổi
giấy phép lái xe (dựa trên kết nối, chia sẻ dữ liệu giấy khám sức khỏe của các
cơ sở khám chữa bệnh thông qua hệ thống thông tin của Bảo hiểm xã hội Việt Nam,
dữ liệu xử lý vi phạm hành chính của Bộ Công an giúp giảm thời gian, thủ tục
xác minh, kiểm tra và giấy tờ phải nộp,…); 02 nhóm dịch vụ công trực tuyến liên
thông “Đăng ký khai sinh - Đăng ký thường trú - Cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ
dưới 6 tuổi” và “Đăng ký khai tử - Xóa đăng ký thường trú - Trợ cấp mai táng, hỗ
trợ chi phí mai táng” (giúp cắt giảm hồ sơ, giấy tờ, thời gian thực hiện, chi
phí đi lại của nhóm khai sinh từ tổng số 21 ngày làm việc xuống còn 4 ngày làm
việc; nhóm khai tử từ tổng số 25 ngày làm việc xuống còn 10 ngày làm việc),… Một
số bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt công tác này như: Bộ Công an, Bộ Giao
thông vận tải, Bộ Tài chính (Thuế, Hải quan, Kho bạc nhà nước), Bảo hiểm xã hội
Việt Nam, Bình Định,…
- Cổng Dịch vụ công quốc gia đã
kết nối, tích hợp với 150 hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các cơ quan,
đơn vị5 phục vụ xác thực
định danh, đăng nhập một lần và giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ
công, trong đó đã công khai, đồng bộ thông tin 6.413 TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc
gia về thủ tục hành chính với các Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp
tỉnh; tích hợp, cung cấp gần 4,5 nghìn dịch vụ công trực tuyến, chiếm hơn 70%;
phục vụ xác thực, định danh và đăng nhập một lần của gần 10 triệu tài khoản, với
2,8 tỷ lượt truy cập tìm hiểu thông tin và dịch vụ, trung bình mỗi ngày có 106
nghìn hồ sơ trực tuyến, 50 nghìn giao dịch thanh toán trực tuyến trên Cổng.
- Có 03 Bộ (Nội vụ, Tư pháp,
Giao thông vận tải) và 31 địa phương6
đã hoàn thành việc xây dựng, kết nối, tích hợp Kho dữ liệu điện tử trên Hệ
thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh với Kho dữ liệu điện tử của tổ
chức, cá nhân trên Cổng Dịch vụ công quốc gia để chia sẻ, tái sử dụng dữ liệu số
hóa phục vụ giải quyết thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, một số bộ, ngành, địa
phương đã chủ động nghiên cứu, triển khai các giải pháp kết nối, chia sẻ tại bộ,
ngành, địa phương giúp việc triển khai thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ
công trực tuyến thuận lợi, hiệu quả hơn như: (1) Tỉnh Bình Định thực hiện kết nối,
chia sẻ dữ liệu giữa Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính với Hệ thống
thông tin của các bệnh viện, trường học, doanh nghiệp cấp nước, vệ sinh môi trường
trên địa bàn tỉnh giúp người dân Bình Định thực hiện thanh toán trực tuyến viện
phí, phí trên Hệ thống thanh toán trực tuyến của Cổng Dịch vụ công quốc gia;
(2) Tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng Cơ sở dữ liệu quản lý lao động nước ngoài làm việc
trên địa bàn tỉnh trên cơ sở số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành
chính và kết nối, chia sẻ dữ liệu với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh
giúp việc quản lý và giải quyết có hiệu quả các thủ tục hành chính liên quan đến
người nước ngoài, nhất là các dịch vụ công trực tuyến về cấp giấy phép lao động
cho người nước ngoài trên địa bàn tỉnh thuận lợi, hiệu quả hơn,…
b) Hạn chế, tồn tại
- Việc tái sử dụng lại thông
tin, dữ liệu số hóa phục vụ giải quyết thủ tục hành chính theo nguyên tắc người
dân, doanh nghiệp chỉ cung cấp thông tin một lần còn rất hạn chế, 9 tháng đầu
năm 2023 chỉ đạt khoảng 3% (1,8 triệu hồ sơ có tái sử dụng lại thông tin, dữ liệu
trong tổng số hơn 62 triệu hồ sơ TTHC).
- Hiện nay, có nhiều thủ tục
hành chính thuộc thẩm quyền thực hiện của cơ quan nhà nước các cấp trên địa bàn
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do các bộ, ngành triển khai cung cấp trên
môi trường mạng như: Bộ Tư pháp (Hệ thống quản lý hộ tịch điện tử; Hệ thống quản
lý lý lịch tư pháp); Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Hệ thống đăng ký doanh nghiệp; đăng
ký hộ kinh doanh); Bộ Giao thông vận tải (Hệ thống quản lý vận tải đường bộ; Hệ
thống quản lý đăng ký giấy phép lái xe); Bộ Tài nguyên và Môi trường (Hệ thống
CSDL đất đai); Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Hệ thống Đăng ký, giải quyết
chính sách trợ giúp xã hội); Bộ Xây dựng (Hệ thống cấp giấy phép xây dựng nhà ở
riêng lẻ và cung cấp thông tin quy hoạch; Hệ thống cấp chứng chỉ hành nghề); Bộ
Tài chính (Cấp mã số cho đơn vị có quan hệ ngân sách); Bộ Y tế (Hệ thống cấp chứng
chỉ hành nghề),… nhưng chưa hoàn thành kết nối, đồng bộ thông tin tiếp nhận, xử
lý hồ sơ với Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh dẫn đến
tình trạng cán bộ, công chức, viên chức phải thực hiện cập nhật trên nhiều hệ
thống, gây lãng phí thời gian, chi phí, nguồn lực, giảm năng suất lao động.
- Việc xây dựng, đưa vào khai
thác trên quy mô toàn quốc đối với một số cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành
như: Đất đai, Hộ tịch,… còn chậm, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của
Chính phủ, xã hội.
- Vấn đề xử lý phối hợp, kết nối,
chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan và tình trạng “cát cứ thông tin” vẫn còn là lực
cản trong chuyển đổi số. Cơ sở dữ liệu thuộc phạm vi quản lý của một số bộ,
ngành chưa được nâng cấp, sẵn sàng kết nối, chia sẻ để tái sử dụng dữ liệu
trong giải quyết thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến.
4. Giải quyết
thủ tục hành chính không phụ thuộc vào địa giới hành chính
a) Kết quả đạt được
- Dịch vụ công trực tuyến có sự
cải thiện rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, tại các bộ, ngành,
có khoảng gần 4,5 nghìn thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết (bao gồm
cả các thủ tục hành chính của cơ quan ngành dọc đóng tại địa phương) thì có khoảng
1,9 nghìn TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình (chiếm 42%), 1,3
nghìn dịch vụ công trực tuyến một phần (chiếm 28,8%). Tại các địa phương, trung
bình mỗi tỉnh có khoảng gần 1,9 nghìn thủ tục hành chính thì có khoảng 853 TTHC
cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình (chiếm 46,5%), 604 TTHC cung cấp dịch
vụ công trực tuyến một phần (chiếm 32,9%). Về số lượng hồ sơ trực tuyến, tỷ lệ
hồ sơ trực tuyến của các bộ, ngành khoảng 80,7% (tăng 1,5 lần so với năm 2022),
của địa phương khoảng 63,5% (tăng 1,8 lần so với năm 2022) trên tổng số hồ sơ
tiếp nhận, giải quyết TTHC. Một số bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt như: Bộ
Công an; Bộ Quốc phòng; Bộ Tài chính (Thuế, hải quan); Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (Thức ăn chăn nuôi); Đà Nẵng; An Giang; Bắc Giang; Bà Rịa -
Vũng Tàu; Bình Định; Bình Dương; Cà Mau; Hải Dương; Nghệ An; Thanh Hóa; Hà Nam;
Hải Phòng; Thái Nguyên; Thái Bình; …
- Có 08 bộ và 29 địa phương7 triển khai việc tiếp nhận,
giải quyết không phụ thuộc vào địa giới hành chính đối với các hồ sơ tiếp nhận
trực tiếp theo 02 phương thức: (1) Tiếp nhận, xử lý, trả kết quả không phụ thuộc
vào địa giới hành chính như: Quy định cho phép cấp Căn cước công dân, xác nhận
cư trú (ngành Công an), cấp lại thẻ bảo hiểm y tế (ngành Bảo hiểm xã hội), đổi
giấy phép lái xe (ngành Giao thông vận tải) tại tương ứng bất kỳ cơ quan công
an xã, phường, cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện, Sở Giao thông vận tải nơi
sinh sống, học tập, cư trú,… (2) Tiếp nhận, trả kết quả không phụ thuộc vào địa
giới hành chính, trong đó 29 địa phương đã ban hành danh mục các thủ tục hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh cho phép công dân có quyền lựa
chọn nộp hồ sơ và nhận kết quả tại Bộ phận Một cửa cấp huyện, cấp xã,… Số lượng
hồ sơ thủ tục hành chính được tiếp nhận, giải quyết không phụ thuộc vào địa giới
hành chính là 6,9 triệu hồ sơ, trong đó bộ, ngành là 3,4 triệu hồ sơ, địa
phương là 3,5 triệu hồ sơ.
b) Hạn chế, tồn tại
- Số lượng dịch vụ công trực
tuyến được các bộ công bố, cung cấp cho người dân, doanh nghiệp cao nhưng còn nhiều
dịch vụ công trực tuyến không đảm bảo mức độ dịch vụ, nhất là dịch vụ công toàn
trình; một số cơ quan, đơn vị lựa chọn cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với
một số thủ tục hành chính thường xuyên không phát sinh hồ sơ gây lãng phí, tốn
kém đầu tư mà không hiệu quả; một số dịch vụ công trực tuyến thực hiện phức tạp,
không đơn giản, thuận lợi hơn so với thực hiện trực tiếp hoặc qua bưu chính. Việc
tăng số lượng hồ sơ trực tuyến ở một số cơ quan, đơn vị chưa thực chất, còn có
tình trạng làm thay, làm hộ người dân để đạt chỉ tiêu dẫn đến quá tải, chậm trễ
trong tiếp nhận hồ sơ của Bộ phận Một cửa.
- Việc xử lý hồ sơ trực tuyến của
một số cơ quan, đơn vị còn chậm trễ, thậm chí có hồ sơ không được xử lý hoặc
còn để xảy ra tình trạng chậm, muộn cao, nhất là các hồ sơ trực tuyến thuộc thẩm
quyền giải quyết của các bộ, ngành như: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,…
- Việc phối hợp trong xử lý hồ
sơ giữa các cơ quan, đơn vị trong giải quyết thủ tục hành chính, nhất là các
nhóm thủ tục hành chính, dịch vụ công liên thông còn yếu, chưa có quy trình nội
bộ, xác định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm, thời hạn giải quyết của từng cơ quan,
đơn vị. Một số vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện chưa kịp thời được
tháo gỡ.
- Thói quen, tâm lý, kỹ năng số
của một số người dân còn chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc trên môi trường số.
Công tác tuyên truyền, hướng dẫn của một số cơ quan, đơn vị thực hiện chưa tốt
để khuyến khích người dân tham gia thực hiện các dịch vụ công trực tuyến.
5. Đổi mới
mô hình, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động của Bộ phận Một cửa
a) Kết quả thực hiện
Đến thời điểm hiện nay, theo
báo cáo của bộ, ngành và địa phương, cả nước đã thành lập tổng số 11.956 Bộ phận
Một cửa (BPMC) các cấp8 để
tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính, cụ thể như sau: Tại bộ, cơ quan ngang
bộ đã thành lập 867 BPMC; địa phương đã thành lập 11.089 BPMC, trong đó: Tại cấp
tỉnh có 58/63 địa phương thành lập Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh,
còn 05 địa phương chưa thành lập Trung tâm phục vụ hành chính công (PVHCC), gồm:
Thành phố Đà Nẵng vẫn duy trì 31 BPMC của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
thành phố (19 BPMC tại các sở, ngành và 12 BPMC tại các đơn vị trực thuộc sở,
ngành) và 04 địa phương vẫn duy trì mô hình BPMC tại các sở, ban, ngành cấp tỉnh
(gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Điện Biên);
Tại cấp huyện, có 754 BPMC; Tại cấp xã, có 10.277 BPMC được thành lập tại Ủy
ban nhân dân cấp xã.
Bộ phận Một cửa của nhiều bộ,
ngành, địa phương đã được quan tâm đầu tư, nâng cấp và chủ động đổi mới mô
hình, nâng cao chất lượng hoạt động, trong đó có 03 bộ, 20 địa phương9 đã tổ chức thực hiện tiếp nhận hồ sơ
tại nhà hoặc hẹn giờ giải quyết thủ tục hành chính theo yêu cầu; 01 bộ, 15 địa
phương10 đã bố trí quầy
tiếp nhận hồ sơ dành riêng cho người già, phụ nữ mang thai, người khuyết tật,
người có công với cách mạng; 02 bộ, 11 địa phương đã bố trí ki-ốt thông minh tại
Bộ phận Một cửa phục vụ hướng dẫn, tiếp nhận và trả kết quả. Một số địa phương
đã nghiên cứu, triển khai các mô hình mới trong tiếp nhận và trả kết quả giúp
nâng cao chất lượng, hiệu quả của Bộ phận Một cửa như: (1) tỉnh Lâm Đồng đã thực
hiện thí điểm việc tổ chức BPMC theo hướng thu gọn đầu mối, đưa BPMC của UBND
phường 4 vào hoạt động tại Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh để tiếp nhận
và giải quyết 165 TTHC cấp xã trên địa bàn; (2) tỉnh Yên Bái đã nghiên cứu,
tham mưu và xây dựng dự thảo Đề án thí điểm của UBND tỉnh về sắp xếp, ghép Bộ
phận PVHCC thành phố và UBND phường Đồng Tâm vào Trung tâm PVHCC tỉnh; ghép Bộ
phận PVHCC phường Tân An vào Bộ phận PVHCC thị xã Nghĩa Lộ; ghép Bộ phận PVHCC
thị trấn Mậu A vào Bộ phận phục vụ hành chính công huyện Văn Yên và thực hiện
cơ chế giao doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích đảm nhận việc hướng
dẫn, tiếp nhận, số hóa hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC; (3) thành phố Hà Nội
đang trong quá trình hoàn thiện đề án đổi mới BPMC, trong đó có nội dung tổ chức
BPMC theo khu vực; (4) tỉnh Hà Giang thực hiện thí điểm việc tổ chức BPMC theo
hướng thu gọn đầu mối, đưa BPMC của UBND phường Nguyễn Trãi vào hoạt động tại
Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh, đưa BPMC của UBND phường Trần Phú, UBND
phường Minh Khai vào hoạt động tại BPMC thành phố Hà Giang để tiếp nhận và giải
quyết 151 TTHC cấp xã trên địa bàn, theo đó các mô hình trên đã tiết kiệm chi
phí đầu tư trụ sở, xây dựng, duy trì hệ thống công nghệ thông tin tại BPMC.….
Nhiều địa phương đã tích cực thực
hiện nhiều giải pháp, sáng kiến để nâng cao hiệu quả, năng suất lao động, giảm
thời gian chờ đợi của người dân, điển hình như: (1) Cà Mau đã tổ chức chiến dịch
69 ngày đêm triển khai thực hiện dịch vụ công trực tuyến, thanh toán trực tuyến,
số hóa; (2) Thái Nguyên với mô hình giải quyết TTHC lưu động, thành lập Tổ Đoàn
viên Chuyển đổi số, chuyển giao Khoa học kỹ thuật lấy Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là
lực lượng nòng cốt hỗ trợ người dân thực hiện TTHC tại nhà; (3) Đà Nẵng đã thực
hiện đồng thời giải pháp đẩy mạnh thực hiện dịch vụ công trực tuyến (hỗ trợ
phí, tăng cường tuyên truyền bằng nhiều hình thức đa dạng); cung cấp chức năng
tra cứu tình trạng xử lý hồ sơ, TTHC bằng QRCode trên ứng dụng zalo; thông báo
kết quả giải quyết qua Zalo, email, điện thoại… để chủ động nhận kết quả, không
phải chờ đợi; phát huy vai trò của Tổ Công nghệ số cộng đồng và Đại lý dịch vụ
công trực tuyến trong việc tuyên truyền, hướng dẫn, hỗ trợ người dân thực hiện
dịch vụ công trực tuyến… Qua đó, thời gian chờ đợi của người dân tại BPMC trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng giảm xuống chỉ còn trung bình 8,6 phút/1 lượt giao dịch,
đạt chỉ tiêu đặt ra giai đoạn 2023-2025 (chỉ tiêu đặt ra trung bình còn tối đa
15 phút/01 lượt giao dịch ),…
Bên cạnh đó, trên cơ sở đánh
giá thực trạng, nhu cầu, năng lực, một số tỉnh đã thực hiện việc chuyển giao một
số công việc trong hướng dẫn, tiếp nhận, số hóa hồ sơ, trả kết quả thủ tục hành
chính cho doanh nghiệp bưu chính công ích thực hiện như Lâm Đồng, Đồng Tháp,
Gia Lai, Bình Định,… Theo báo cáo của các địa phương này, việc thực hiện thuê dịch
vụ bưu chính công ích giúp tăng năng suất lao động, giảm nhân lực, tiết kiệm
chi phí cụ thể như: Tại tỉnh Lâm Đồng nhân sự Trung tâm phục vụ hành chính công
đã giảm 40 người (từ 54 cán bộ công chức khi thuê dịch vụ bưu chính công ích chỉ
còn 14 nhân viên), cấp huyện giảm từ 4-5 công chức/01 BPMC cấp huyện; tỉnh Đồng
Tháp tiết kiệm ngân sách hàng tháng cho BPMC các cấp khoảng 250 triệu đồng/tháng,…
b) Hạn chế, tồn tại
- Một số bộ, ngành, địa phương
chưa chủ động nghiên cứu, thực hiện các giải pháp đổi mới mô hình, nâng cao chất
lượng, hiệu quả, năng suất lao động của Bộ phận Một cửa phù hợp với điều kiện
thực tế của bộ, ngành, địa phương. Nhìn chung, năng suất lao động trong thực hiện
tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính chưa được cải thiện, thậm chí có nơi
do tình trạng làm thay, làm hộ dịch vụ công trực tuyến cho người dân dẫn đến
quá tải, tăng thời gian chờ đợi, tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính, giảm mức độ
hài lòng.
- Một số mô hình đổi mới trong
thực hiện tiếp nhận, trả kết quả thủ tục hành chính có kết quả thí điểm hiệu quả,
khả quan nhưng chậm được tổng kết, nhân rộng.
- Việc triển khai cơ chế chuyển
giao doanh nghiệp bưu chính công ích thực hiện một hoặc một số công việc trong
hướng dẫn, tiếp nhận, số hóa hồ sơ và trả kết quả thủ tục hành chính còn gặp vướng
mắc do thiếu các quy định về định mức kinh tế - kỹ thuật phục vụ cho việc lập,
thẩm định, phê duyệt và triển khai đề án,…
- Cơ chế, chính sách hỗ trợ đối
với cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại Bộ phận Một cửa chưa đồng bộ, đầy
đủ để khuyến khích, động viên kịp thời đối với đội ngũ này.
6. Đánh giá
chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp dựa trên dữ liệu theo thời gian thực
a) Kết quả đạt được
Ngày 23 tháng 6 năm 2022, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 766/QĐ-TTg phê duyệt Bộ chỉ số chỉ đạo,
điều hành và đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp trong thực hiện
thủ tục hành chính, dịch vụ công theo thời gian thực trên môi trường điện tử (Bộ
Chỉ số). Đây là công cụ hữu hiệu phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương trong việc quản lý chất
lượng thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công hoàn toàn dựa trên dữ liệu
theo thời gian thực; giúp kiểm soát thực thi ("điểm nghẽn" lớn nhất
hiện nay), tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, trách nhiệm giải trình
trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công, dựa trên cơ sở đổi mới
việc kiểm soát quy trình và kết quả đầu ra theo thời gian thực, cá thể hóa
trách nhiệm đến từng cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động;
đồng thời, kịp thời phát hiện các khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quy định,
cũng như thực hiện thủ tục hành chính để từ đó xác định nguyên nhân, giải pháp
khắc phục, nâng cao chất lượng phục vụ, mức độ hài lòng của người dân, doanh
nghiệp. Bộ Chỉ số được triển khai chính thức từ 01 tháng 8 năm 2022 với 05 nhóm
chỉ số: (1) Công khai, minh bạch; (2) Tiến độ, kết quả giải quyết; (3) Số hóa hồ
sơ; (4) Cung cấp dịch vụ trực tuyến; (5) Mức độ hài lòng.
Trên cơ sở Bộ chỉ số, hiện nay,
có 10 bộ, 47 địa phương đã thường xuyên công khai kết quả đánh giá, nhất là
danh sách cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan, đơn vị để xảy ra chậm trễ,
nhũng nhiễu, tiêu cực trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ
công, từ đó tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, trách nhiệm giải trình, cải
thiện rõ rệt chất lượng phục vụ, mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp, cụ
thể: 9 tháng đầu năm 2023, tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng hoặc sớm hạn của địa
phương đạt 90%, của bộ, ngành đạt 50,2% (tăng 10% so với cùng kỳ năm 2022); Mức
độ hài lòng trong xử lý phản ánh, kiến nghị của địa phương đạt 93%, của bộ,
ngành đạt 76,6%. Một số bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt như: Bộ Tài chính,
Bộ Quốc phòng, Bình Định, Tây Ninh, Bắc Giang, Bình Phước, Hòa Bình, Hậu Giang,
Kon Tum, Lâm Đồng, Lào Cai, Quảng Bình, Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Sóc Trăng, Thái
Nguyên, Yên Bái,…
b) Hạn chế, tồn tại
- Chất lượng thực hiện thủ tục
hành chính, mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp có được cải thiện nhưng
chưa đáng kể, nhất là trong các lĩnh vực như: Đất đai, xây dựng, đầu tư,… Vẫn
còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, phát sinh thêm thủ tục hành chính, hồ sơ,
giấy tờ ngoài quy định trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính.
- Vẫn còn nhiều bộ, ngành, địa
phương chưa thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc
thường xuyên đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp theo Bộ chỉ số
phục vụ người dân, doanh nghiệp và công khai kết quả đánh giá trên phương tiện
thông tin đại chúng.
- Viêc nâng cấp Hệ thống thông
tin giải quyết thủ tục hành chính tại một số bộ, ngành, địa phương còn chậm dẫn
đến tình trạng không cập nhật, đồng bộ đầy đủ dữ liệu hồ sơ thủ tục hành chính
tại bộ, ngành, địa phương phục vụ đánh giá, giám sát. Việc công khai, minh bạch,
nhất là công khai, minh bạch quá trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ ở một số cơ quan,
đơn vị còn yếu, còn có tình trạng tiếp nhận hồ sơ “ngoài luồng”, không được cập
nhật trên Hệ thống, không thể theo dõi, giám sát, đánh giá chất lượng.
- Kỷ luật, kỷ cương hành chính
của một số cơ quan, đơn vị chưa nghiêm; chưa thực hiện việc báo cáo giải trình
và xin lỗi người dân, doanh nghiệp trường hợp để xảy ra chậm muộn, tiêu cực
trong giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính của cơ quan, đơn vị; chưa kịp thời
phát hiện, xử lý nghiêm các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức có
hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, làm phát sinh thêm thủ tục hành chính, hồ sơ, giấy
tờ, yêu cầu điều kiện không đúng quy định hoặc nhiều lần để xảy ra tình trạng
chậm trễ trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính theo đúng quy định pháp
luật về đánh giá, xếp loại chất lượng và xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên
chức.
II. GIẢI
PHÁP
1. Đánh
giá chung
Thời gian qua, việc thực hiện
thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công đã có nhiều chuyển biến tích cực, bước
đầu đã gắn kết với chuyển đổi số theo hướng người dân, doanh nghiệp chỉ cung cấp
thông tin một lần, chất lượng phục vụ, mức độ hài lòng của người dân, doanh
nghiệp ngày một được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại như
đã đánh giá ở mục I.
Nguyên nhân chính của tồn tại,
hạn chế trên là: (1) Quy định thủ tục hành chính trong nhiều văn bản quy phạm
pháp luật còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện; (2) Công khai, minh bạch trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục
hành chính, cung cấp dịch vụ công còn yếu; (3) Kỷ luật, kỷ cương hành chính
chưa nghiêm, chưa thực sự gắn việc đánh giá chất lượng thực hiện thủ tục hành
chính, cung cấp dịch vụ công với đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ
quan, đơn vị, cán bộ, công chức định kỳ, hàng năm; (4) Chưa phát huy được nhân
tố con người trong thực hiện đổi mới, chuyển đổi số trong thực hiện thủ tục
hành chính; (5) Chưa phát huy được vai trò của cải cách, tiềm năng của dữ liệu
trong việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện chất lượng dịch
vụ, nâng cao năng suất lao động; (6) Chất lượng dịch vụ công trực tuyến còn thấp,
chưa lấy người dùng làm trung tâm; (7) Chậm phát hiện, xử lý các khó khăn, vướng
mắc, bất cập trong thực hiện, còn tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm,..;
(8) Hạ tầng công nghệ thông tin còn yếu, thiếu đồng bộ; (9) Tâm lý, thói quen
làm theo phương thức truyền thống, kỹ năng số của một bộ phận người dân chưa được
cải thiện; (10) Chưa huy động được sự tham gia, giám sát, đánh giá của người
dân, doanh nghiệp, hiệp hội trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính, cung
cấp dịch vụ công.
2. Giải
pháp
Để kịp thời chấn chỉnh và khắc phục
những tồn tại, hạn chế nguyên nhân nêu trên, nâng cao chất lượng phục vụ, mức độ
hài lòng của người dân, doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp
dịch vụ công, đề nghị tập trung triển khai một số giải pháp cụ thể như sau:
a) Về thể chế
- Tập trung đẩy mạnh thực hiện
việc cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, đánh giá tác động chính
sách và tham vấn đối tượng thực hiện trong quá trình xây dựng thể chế. Kịp thời
nắm bắt và xử lý dứt điểm những vướng mắc, khó khăn cho người dân, doanh nghiệp
trong thực hiện cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính; không để tình trạng kéo
dài, đùn đẩy gây tốn kém chi phí, công sức và thời gian đi lại cũng như ảnh hưởng
đến cơ hội đầu tư kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.
- Rà soát, sửa đổi các quy định
thủ tục hành chính tại các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành để chuyển từ
phương thức tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính truyền thống, giấy tờ, trực
tiếp sang trực tuyến, số hóa, sử dụng dữ liệu kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng
mắc về thể chế trong thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định
trong thực hiện thủ tục hành chính để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới như:
Các định mức kinh tế - kỹ thuật, quy định nội dung chi, mức chi cho số hóa hồ
sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính; các quy định, hướng dẫn, định mức
kinh tế - kỹ thuật làm cơ sở cho việc tổ chức xã hội hóa trong tiếp nhận, giải
quyết thủ tục hành chính do bưu chính công ích thực hiện; các quy định, tiêu
chí rà soát phân cấp thực hiện thủ tục hành chính,...
b) Tăng cường trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị về nâng cao chất lượng phục vụ trong thực hiện
thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp, trong
đó, việc hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu về thực hiện thủ tục hành chính,
cung cấp dịch vụ công là căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng
đầu và cơ quan, đơn vị hàng năm.
c) Chủ động thực hiện các giải
pháp nâng cao chất lượng, quản lý công bố, công khai thủ tục hành chính theo
quy định; bảo đảm 100% hồ sơ của các thủ tục hành chính phải được cập nhật trên
Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính và công khai quá trình tiếp nhận,
giải quyết thủ tục hành chính để theo dõi, giám sát, đánh giá. Số lượng hồ sơ
tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính được tổng hợp trên Hệ thống thông tin
giải quyết thủ tục hành chính là một căn cứ để đánh giá năng suất lao động, phê
duyệt biên chế và bố trí nhân sự của cơ quan, đơn vị thực hiện thủ tục hành
chính, cung cấp dịch vụ công.
d) Tăng cường kỷ luật, kỷ cương
hành chính trong tiếp nhận giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ
công. Thực hiện nghiêm việc báo cáo giải trình của người đứng đầu và xin lỗi
người dân, doanh nghiệp đối với các trường hợp để xảy ra chậm muộn, tiêu cực
trong giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính của cơ quan, đơn vị; thực hiện thanh
tra, kiểm tra công vụ, kiên quyết xử lý nghiêm các cơ quan, đơn vị, cán bộ,
công chức, viên chức có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, làm phát sinh thêm thủ tục
hành chính, hồ sơ, giấy tờ, yêu cầu điều kiện không đúng quy định hoặc nhiều lần
để xảy ra tình trạng chậm trễ trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính. Định
kỳ hàng tháng công khai kết quả đánh giá Bộ Chỉ số chỉ đạo, điều hành và đánh
giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục hành
chính, dịch vụ công và danh sách cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan, đơn vị
để xảy ra chậm trễ theo Quyết định số 766/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 năm 2022 của
Thủ tướng Chính phủ; căn cứ kết quả đánh giá của Bộ Chỉ số để xem xét mức độ
hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, người đứng đầu cơ quan, đơn vị và cán
bộ, công chức, viên chức theo đúng quy định pháp luật về đánh giá, xếp loại chất
lượng và xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
đ) Tập trung tái cấu trúc quy
trình, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính trên cơ sở liên thông điện tử
và tái sử dụng dữ liệu để xây dựng, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, thanh
toán trực tuyến bảo đảm tuân thủ nguyên tắc lấy người dùng làm trung tâm. Kiên
quyết không xây dựng, cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với thủ tục hành
chính hoặc nhóm thủ tục hành chính liên thông chưa có phương án tái cấu trúc
quy trình hoặc không phát sinh hồ sơ trong ba năm gần nhất; rà soát, tạm dừng
cung cấp cho đến khi được nâng cấp, hoàn thiện đối với dịch vụ công trực tuyến
không đáp ứng được mức độ dịch vụ đã công bố, chưa thông suốt và đơn giản, thuận
lợi, giảm thời gian, chi phí thực hiện hơn so với thực hiện trực tiếp hoặc qua
bưu chính.
e) Hoàn thành các giải pháp kỹ
thuật, hạ tầng để thực hiện kết nối, tích hợp Hệ thống định danh và xác thực điện
tử do Bộ Công an quản lý (VneID) với Cổng dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông
tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh, hoàn thành và đưa vào sử dụng
tài khoản định danh điện tử VNeID trong thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ
hành chính công trên môi trường điện tử trước ngày 01 tháng 7 năm 2024.
g) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và
Truyền thông, Văn phòng Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
rà soát, hoàn thành việc tích hợp, đồng bộ thông tin tiếp nhận, xử lý hồ sơ
trên Cổng dịch vụ công quốc gia và Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành
chính cấp tỉnh đối với các dịch vụ công thuộc thẩm quyền thực hiện của cơ quan
nhà nước các cấp trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do các bộ,
ngành triển khai cung cấp trên môi trường mạng, tránh tiếp diễn tình trạng cán
bộ, công chức, viên chức phải thực hiện cập nhật trên nhiều hệ thống, gây lãng
phí thời gian, chi phí, nguồn lực, giảm năng suất lao động.
h) Thực hiện số hóa hồ sơ, kết
quả giải quyết thủ tục hành chính theo đúng quy định của Chính phủ tại Nghị định
số 45/2020/NĐ-CP và Nghị định số 107/2021/NĐ-CP, gắn việc số hóa với việc thực
hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình tiếp nhận, giải
quyết thủ tục hành chính; tăng cường kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ
liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống
thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh, hoàn thành việc kết nối
Kho quản lý dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân trên Hệ thống thông tin giải
quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh với Kho quản lý dữ liệu điện tử của tổ
chức, cá nhân trên Cổng Dịch vụ công quốc gia; không yêu cầu người dân, doanh
nghiệp cung cấp thông tin, giấy tờ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính đã được
số hóa hoặc chia sẻ từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành
theo đúng quy định.
i) Nâng cao hiệu quả công tác
phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong giải quyết thủ tục hành chính, nhất là
các nhóm thủ tục hành chính, dịch vụ công liên thông. Trong đó, các bộ, ngành
phải rà soát, hoàn thành việc công bố quy trình nội bộ xác định rõ thời hạn,
trách nhiệm giải quyết trong từng bước, giai đoạn đối với các thủ tục hành
chính liên thông giữa các cơ quan trung ương và địa phương; chủ trì, phối hợp với
bộ, ngành, cơ quan liên quan kịp thời xem xét, giải quyết khó khăn, vướng mắc,
kiến nghị, đề xuất của các địa phương về các vấn đề liên quan đến thủ tục hành
chính thuộc phạm vi quản lý.
k) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả,
đẩy mạnh thực hiện Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và
xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn
đến năm 2030 (Đề án 06) tại bộ, ngành, địa phương, trong đó tập trung hoàn
thành việc tháo gỡ các “điểm nghẽn” theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại
công văn số 452/TTg-KSTT ngày 23 tháng 5 năm 2023.
l) Thực hiện tốt công tác tiếp
nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính; người đứng đầu thường
xuyên tổ chức đối thoại với người dân, doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng trả lời
phản ánh, kiến nghị, chấm dứt tình trạng không trả lời hoặc trả lời chung
chung, không cụ thể, rõ ràng, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.
m) Thực hiện các giải pháp phù
hợp huy động, khuyến khích người dân, doanh nghiệp chủ động tham gia thực hiện
các nội dung chuyển đổi số trong thực hiện thủ tục hành chính. Năm 2023, tập
trung hoàn thành xây dựng, trình cấp có thẩm quyền quy định miễn hoặc giảm phí,
lệ phí trong thực hiện dịch vụ công trực tuyến để khuyến khích người dân thực
hiện dịch vụ công trực tuyến.
n) Chủ động đổi mới, nâng cao
hiệu quả, năng suất lao động của Bộ phận Một cửa theo thẩm quyền, trường hợp vượt
thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định theo quy định tại khoản 8 Điều 7 Nghị định số 61/2018/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ
sung).
p) Có cơ chế, chính sách phù hợp,
thực hiện ưu tiên bố trí đầy đủ nhân lực, kinh phí hàng năm cho việc triển khai
các nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số, hoàn thành các mục
tiêu theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
III. KIẾN
NGHỊ
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả
các giải pháp đổi mới việc giải quyết thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ
kính đề nghị:
1. Thủ tướng Chính phủ ban hành
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp nâng cao hiệu
quả giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công phục vụ người dân,
doanh nghiệp (xin gửi kèm dự thảo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ).
2. Các bộ, ngành, địa phương
căn cứ báo cáo này và Chỉ thị được Thủ tướng Chính phủ ban hành triển khai ngay
các giải pháp để khắc phục tồn tại, hạn chế và nâng cao hiệu quả giải quyết thủ
tục hành chính, cung cấp dịch vụ công phục vụ người dân, doanh nghiệp tại bộ,
ngành, địa phương./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Các Phó TTgCP (để b/c);
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, Cơ quan thuộc CP;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- VPCP: BTCN, các PCN; Trợ lý, Thư ký TTg, các PTTg; các Vụ, Cục: TH, KTTH,
PL, KGVX, NC, CN, NN, ĐMDN, TCCV, Cổng TTĐTCP;
- Lưu: VT, KSTT (2b).
|
BỘ TRƯỞNG, CHỦ
NHIỆM
Trần Văn Sơn
|
1 41 tỉnh, thành phố: Bắc Giang; Bắc Kạn; Bắc Ninh; Bến
Tre; Bình Định; Bình Phước; Cao Bằng; Đắk Lắk; Điện Biên; Đồng Tháp; Hà Giang;
Hà Nam; Hà Tĩnh; Hải Dương; Hòa Bình; Hậu Giang; Hưng Yên; Khánh Hòa; Kon Tum;
Lai Châu; Lào Cai; Lâm Đồng; Lạng Sơn; Long An; Ninh Bình; Ninh Thuận; Phú Thọ;
Quảng Bình; Quảng Nam; Quảng Ngãi; Quảng Trị; Thái Bình; Thái Nguyên; Thanh
Hóa; Thừa Thiên - Huế; Tiền Giang; TP. Cần Thơ; TP. Hà Nội; TP. Hồ Chí Minh;
Vĩnh Phúc; Yên Bái.
2 85 bộ,
cơ quan, địa phương gồm: 22 bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương.
3 Theo
số liệu báo cáo của 16/22 bộ, cơ quan ngang bộ, 60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
4 Còn
06 Bộ chưa hoàn thành, gồm: Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Nội vụ; Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn; Bộ Công Thương; Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch; Bộ
Ngoại giao.
5 Cổng
DVCQG đã kết nối, chia sẻ dữ liệu với Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của 24
bộ, ngành, 63 địa phương; 16 ngân hàng, trung gian thanh toán; 10 cơ sở dữ liệu
quốc gia, chuyên ngành; các Tập đoàn, tổng công ty, công ty, bệnh viện,…
6 31 địa
phương gồm: An Giang; Bà Rịa - Vũng Tàu; Bắc Ninh; Bình Định; Bến Tre; Điện
Biên; Đồng Tháp; Đắk Lắk; Hà Nam; Hưng Yên; Hà Tĩnh; Hải Dương; Hòa Bình; Kiên
Giang; Kon Tum; Lào Cai; Lâm Đồng; Nam Định; Ninh Thuận; Nghệ An; Quảng Ngãi;
Quảng Trị; Quảng Nam; Sóc Trăng; TP. Cần Thơ; Trà Vinh; Thái Nguyên; Thanh Hóa;
Tuyên Quang; Vĩnh Long; Yên Bái.
7 Các Bộ, ngành: Công an; Tài Chính; Giao thông vận tải;
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Y tế; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Thanh
Tra Chính phủ; Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Các địa phương: Bắc Giang; Bến Tre;
Bình Thuận; Cần Thơ; Cao Bằng; Đà Nẵng; Đắk Lắk; Đồng Nai; Hà Giang; Hà Tĩnh, Hải
Dương; Hòa Bình; Khánh Hòa; Kon Tum; Lai Châu; Lâm Đồng; Lạng Sơn; Lào Cai;
Long An; Ninh Thuận; Phú Yên; Quảng Nam; Quảng Ninh; Sóc Trăng; Tây Ninh; Thái
Nguyên; Trà Vinh; Vĩnh Phúc; Yên Bái
8 Theo số liệu báo cáo của 16/22 bộ, cơ quan ngang bộ,
60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
9 Bộ,
ngành: Quốc phòng; Công thương; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các địa
phương:Bắc Giang; Bắc Ninh; Cao Bằng; Đà Nẵng; Đắk Lắk; Hà Nội; Hà Tĩnh; Hậu
Giang; Hòa Bình; Lâm Đồng; Lào Cai; Long An; Ninh Thuận; Quảng Nam; Quảng Ngãi;
Quảng Ninh; Sóc Trăng; Sơn La; Tây Ninh; Thái Nguyên; Trà Vinh; Yên Bái
10 Bộ
Quốc Phòng. Các địa phương: Bình Phước; Đắk Lăk; Hà Giang; Hà Nội; Hà Tĩnh; Lâm
Đồng; Long An; Nam Định; Nghệ An; Ninh Bình; Quảng Bình; Quảng Ngãi; Quảng
Ninh; Tuyên Quang; Yên Bái.