Báo cáo 689/BC-TCTTTg về kết quả thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và kết quả kiểm tra tháng 8 năm 2017 do Tổ Công tác của Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 689/BC-TCTTTg
Ngày ban hành 01/09/2017
Ngày có hiệu lực 01/09/2017
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ
Người ký Mai Tiến Dũng
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
TỔ CÔNG TÁC CỦA TTgCP

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 689/BC-TCTTTg

Hà Nội, ngày 01 tháng 9 năm 2017

 

BÁO CÁO

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ DO CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ GIAO VÀ KẾT QUẢ KIỂM TRA THÁNG 8 NĂM 2017

I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ DO CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ GIAO 8 THÁNG 2017

Từ ngày 01/01/2017 đến 29/8/2017, có tổng số 13.672 nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao các bộ, cơ quan, địa phương. Trong đó, có 7.455 nhiệm vụ đã hoàn thành (đúng hạn: 6.448, quá hạn: 1.007); 6.217 nhiệm vụ chưa hoàn thành (trong hạn: 5.996, quá hạn: 221- chiếm 2,8%, giảm 0,4% so với tháng trước) (có phụ lục kèm theo).

II. KẾT QUẢ KIỂM TRA CỦA TỔ CÔNG TÁC THÁNG 8 NĂM 2017

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong tháng 8 năm 2017, Tổ công tác đã tiến hành 02 cuộc kiểm tra chuyên đề về triển khai các giải pháp nhằm bảo đảm mục tiêu tăng trưởng năm 2017 tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và tại 03 Tổng công ty thuộc ngành hàng không, gồm: Cảng hàng không Việt Nam, Quản lý bay Việt Nam, Hàng không Việt Nam; 01 cuộc kiểm tra các Bộ quản lý chuyên ngành trong việc thực hiện các nhiệm vụ giao liên quan đến hoạt động kiểm tra chuyên ngành (KTCN) đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Tổ công tác báo cáo Chính phủ về kết quả kiểm tra như sau:

1. Kết quả kiểm tra tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR)

Trong thời gian qua, VNR đã triển khai nhiều giải pháp tích cực để đạt mục tiêu tăng trưởng theo kế hoạch đề ra, như: Tổ chức lại sản xuất, tận dụng tối đa chiều dài và tải trọng đoàn tàu khách, tàu hàng để giảm giá vé, giá cước (giá cước bình quân về hàng hóa giảm từ 12 - 15%, giá vé hành khách giảm từ 15- 29% so vi cùng kỳ năm trước), nâng cao năng lực cạnh tranh; tích cực hợp tác với các đối tác ngoài ngành (như Petrolimex, Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn...) để khai thác tối đa năng lực kết cấu hạ tầng đường sắt, để tăng doanh thu, lợi nhuận. Trong 7 tháng đầu năm 2017, kết quả sản xuất kinh doanh của VNR có tăng trưởng nhẹ, cụ thể: Tổng doanh đạt 3.515,5 tỷ đồng, đạt 45,1% so với kế hoạch, tăng 3,8% so với cùng kỳ 2016; vận tải tăng trưởng từ 10 - 13% so với cùng kỳ, đạt hơn 3.719 triệu TKm (tấn Km). Các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao được VNR triển khai thực hiện tích cực: Theo kết quả rà soát, thống kê, từ 01/01/2016 đến 10/8/2017, VNR có tổng số 56 nhiệm vụ giao, trong đó: số nhiệm vụ đã hoàn thành đúng hạn: 55; nhiệm vụ chưa hoàn thành quá hạn: 01.

Tuy nhiên, bên cnh kết quả đạt được, VNR còn hạn chế, yếu kém về một số mặt công tác, như: còn tư tưởng bao cấp, chưa tích cực đổi mới phương pháp quản lý, điều hành, ứng dụng công nghệ mới trong quản trị doanh nghiệp; thị phần giảm dần qua các năm; vấn đề an toàn đường sắt, chất lượng lao động, ý thức trách nhiệm của người lao động; việc kêu gọi các nhà đầu tư tham gia khai thác, triển khai xã hội hóa các dịch vụ hạ tầng; đẩy mạnh khai thác hiệu quả hạ tầng hiện có; công tác cổ phần hóa, thoái vốn... chưa đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với ngành đường st và đề nghị VNR có giải pháp khắc phục, chấn chỉnh kịp thời.

2. Kết quả kiểm tra 3 Tổng công ty thuộc ngành hàng không

a) Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV)

Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam hiện đang quản lý và khai thác 22/22 cảng HK trên cả nước, trong nhng năm qua, ACV đã rất cố gắng trong việc thực hiện đầu tư, nâng cấp kết cấu hạ tầng hàng không; tích cực đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh và thực hiện nhiều biện pháp hiệu quả bảo đảm an ninh an toàn hàng không, như đầu tư hệ thng đèn tín hiệu, đèn đêm, hệ thng ct hạ cánh chính xác, hệ thống máy soi với công nghệ tiệm cận quốc tế... đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của vận tải hàng không; đạt được nhiều kết quả trong hoạt động kinh doanh, đầu tư, cụ thể: trong 7 tháng đầu năm 2017, tổng sản lượng hành khách tiếp tục tăng trưởng, đạt 56 triệu hành khách, tăng 17%; Sản lượng hàng hóa, bưu kiện đạt 775 nghìn tấn, tăng 30%; Sản lượng hạ cất cánh đạt 363 nghìn lượt, tăng 11%; doanh thu đạt 9.864 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 3.458 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước 875 tỷ, đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành hàng không Việt Nam nói riêng và bảo đảm mục tiêu tăng trưởng chung năm 2017 nói chung.

b) Tổng công ty quản lý bay Việt Nam (VATM)

Trong những năm qua, Tổng công ty quản lý bay Việt Nam đã thực hiện tốt chức năng quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động bay trên các hành lang bay và vùng tri được phân công; bảo đảm các dịch vụ không lưu, không báo và khí tượng hàng không; tích cực triển khai nhiều giải pháp trong việc củng cố, nâng cấp, hoàn thiện, hoạt động quản lý và cung cấp dịch vụ quản lý không lưu ngày càng dn tiếp cận và phù hợp với các khuyến cáo thực hiện của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO). Các kết quả đạt được, cụ thể: Hệ thống quản lý an toàn của VATM năm 2016 đạt 81% các nội dung yêu cầu của ICAO, trên 3 cấp độ; quyết liệt triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm tăng năng lực quản lý, khai thác tại các cảng hàng không sân bay và đảm bảo an toàn bay; nâng cao năng lực khai thác sân bay tổng thể để tăng tần suất cất cánh và hạ cánh lên 54 lượt, chuyến/giờ tại Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Tính đến hết 6 tháng đu năm 2017: Sản lượng điều hành bay: 395.129 lần chuyến, đạt 51,26% so với kế hoạch năm 2017 và tăng 9,18 % so với thực hiện cùng kỳ năm 2016; tổng doanh thu: 1.613.916 triệu đồng, đạt 52,43% so với kế hoạch năm 2017 và tăng 58,45% so với thực hiện cùng kỳ năm 2016; lợi nhuận trước thuế: 464.257 triệu đồng, đạt 59,10% so với kế hoạch năm 2017 và 183,99% so với thực hiện cùng kỳ năm 2016; nộp ngân sách nhà nước: 1,163,246 triệu đồng, đạt 54,58% so vi kế hoạch năm 2017 và bằng 153,73% so với thực hiện cùng kỳ năm 2016.

c) Tổng công ty Hàng không Việt Nam (VNA)

Trong 7 tháng đầu năm 2017, mặc dù thị trường nội địa đã tăng trưởng chậm lại, có dấu hiệu bão hòa, dưới sự điều hành năng động và quyết liệt của lãnh đạo Tổng công ty và nỗ lực của người lao động, Tổng công ty đã khẳng định vị trí, vai trò của Hãng hàng không Quốc gia, đảm bảo tuyệt đối an toàn, an ninh trong hoạt động khai thác bay. VNA đã hoàn thành tốt kế hoạch 7 tháng với doanh thu đạt 49.000 tỷ VND, lợi nhuận đạt 2.100 tỷ VND vượt 45,6% kế hoạch; thực hiện 84.024 chuyến bay an toàn với 192.303 giờ bay vượt 1,8% so với cùng kỳ; vận chuyển 15,6 triệu lượt khách, tăng 7,3% so với cùng kỳ và 182 nghìn tấn hàng hóa, tăng 24% so với cùng kỳ và vượt 6% kế hoạch; chất lượng dịch vụ duy trì ổn định 4 sao, chỉ số đúng giờ bình quân đạt 90,5% và luôn là Hãng hàng không tại Việt Nam có chỉ số đúng giờ cao nhất.

Các nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao được 03 Tổng công ty thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ. Theo kết quả rà soát, thống kê: Từ 01/01/2016 - 10/8/2017, tổng số nhiệm vụ giao 03 Tổng công ty: 84 nhiệm vụ, trong đó đã hoàn thành 80 (ACV hoàn thành 100% nhiệm vụ giao đúng tiến độ); còn 4 nhiệm vụ chưa hoàn thành trong hạn. Với những kết quả đạt được của 03 Tổng công ty thuộc ngành hàng không trong 7 tháng đầu năm 2017, đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng khu vực dịch vụ và mục tiêu tăng trưởng chung năm 2017. Tuy nhiên, còn một số mặt công tác: Công tác bảo đảm an toàn an ninh hàng không; nâng tần suất cất, hạ cánh; tình hình hủy, hoãn chuyến bay; đầu tư, nâng cao hiệu quả hạ tầng hàng không; chủ trương xã hội hóa; công tác cổ phần hóa, thoái vốn... chưa đáp ứng yêu cầu. Đề nghị 03 Tổng công ty cần tập trung chỉ đạo, khắc phục triệt để những tồn tại, bất cập này nhằm nâng cao sức cạnh tranh, xây dựng ngành hàng không Việt Nam ngày càng phát triển lớn mạnh, đóng góp nhiều hơn nữa vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

3. Đối với các Bộ được kiểm tra về việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến hoạt động KTCN đối với hàng hóa xuất nhập khẩu

Trong thời gian qua, các Bộ, cơ quan liên quan đã nỗ lực, cố gắng trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ giao tại Quyết định 2026/QĐ-TTg ngày 17 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 19-2017/NQ-CP; tích cực soạn thảo, sửa đổi, bổ sung thay thế hoặc bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền quy định về KTCN; tình trạng chồng chéo, trùng lặp, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm thủ tục, thời gian, chi phí liên quan đến hoạt động KTCN đối với hàng hóa xuất nhập khẩu được khắc phục một phần.

Theo kết quả rà soát, thống kê: Quyết định 2026/QĐ-TTg và Nghị quyết 19-2017 có tổng số 98 nhiệm vụ giao 13 Bộ quản lý chuyên ngành (87 nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung, thay thế 87 văn bản quy phạm pháp luật về KTCN; 11 nhiệm vụ giao liên quan đến hoạt động KTCN). Đến nay, các Bộ đã thực hiện 64 nhiệm vụ tại Quyết định 2026/QĐ-TTg (có Bộ đã hoàn thành 100% nhiệm vụ giao, gồm: Kế hoạch và Đầu tư, Lao động, Thương binh và Xã hội, Văn hóa, Thể thao và Du lịch); còn 34 nhiệm vụ chưa hoàn thành.

Tuy nhiên, công tác này còn những tồn tại, hạn chế:

- Một số quy định còn chồng chéo, xung đột, bất cập, chưa được bổ sung, sửa đổi hoặc bãi bỏ kịp thời dẫn đến một mặt hàng bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật, phải thực hiện nhiều thủ tục, KTCN của nhiều Bộ (tỷ lệ mặt hàng phải thực hiện 2 hoặc 3 thủ tục kiểm tra chuyên ngành, chiếm khoảng 58%), làm tăng chi phí, phiền hà cho doanh nghiệp; việc thống nhất ban hành danh mục hàng hóa phải KTCN và gắn mã HS còn chậm; chưa đẩy mạnh áp dụng quản lý rủi ro, quản lý trên cơ sở đánh giá sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, chưa chuyển mnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm.

Đặc biệt, qua báo cáo, phản ánh của Bộ Tài chính, Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã nêu rõ một số Bộ có danh mục hàng hóa thuộc đối tượng KTCN của một số Bộ quy định còn nhiều, phạm vi rộng, nhiều mặt hàng chưa có mã số HS, chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn đầy đủ, việc xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật nhưng không được sửa đổi, bổ sung kịp thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp.

- Quy trình thủ tục chủ yếu dựa trên phương thức thủ công, ngoại trừ một số thủ tục được đưa lên Cng thông tin một cửa quốc gia đã thực hiện bng phương thức điện tử, hầu hết các thủ tục còn lại đều được thực hiện bằng phương thức thủ công dựa trên giấy tờ. Danh mục nhiều hàng hóa phải quản lý chuyên ngành không được mã hóa HS nên không thể tự động hóa trong khâu lựa chọn kiểm tra.

- Phương pháp quản lý, kiểm tra chưa theo chuẩn mực quốc tế dẫn đến kéo dài thời gian thông quan hàng hóa, hầu hết hàng hóa (khoảng gần 100.000 nghìn mặt hàng) phải KTCN đều thực hiện kiểm tra tại cửa khẩu trong quá trình thông quan với tỷ lệ phát hiện vi phạm rất thấp (dưới 0,1%); không thực hiện công nhận chất lượng sản phẩm hàng hóa giữa các nước, nhất là hàng hóa có nguồn gốc từ các nước phát triển.

Với các tồn tại, hạn chế nêu trên, dẫn đến tỷ lệ các lô hàng nhập khẩu phải KTCN tại giai đoạn thông quan chưa giảm nhiều, vẫn ở mức 35% (mục tiêu của Nghị quyết 19/NQ-CP, giảm xuống còn 15%), gây khó khăn, phiền hà, làm tăng chi phí cho doanh nghiệp (mỗi năm doanh nghiệp phải bỏ ra khoảng 28,6 triệu ngày công và khoảng 14,3 nghìn tỉ đồng để thực hiện các quy định, thủ tục về kiểm tra chuyên ngành)... chưa đáp ứng được yêu cầu chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Tại cuộc kiểm tra, các Bộ đã thẳng thắn nhìn nhận những bất cập, tồn tại liên quan đến hoạt động kiểm tra chuyên ngành của Bộ mình với tinh thần cầu thị và cam kết với Tổ công tác sẽ khẩn trương khắc phục.

Tổ công tác kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ biểu dương tinh thần quyết liệt, cầu thị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương đã thành lập ngay Tổ công tác của Bộ trưởng để đôn đốc, kiểm tra các đơn vị trong việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến hoạt động kiểm tra chuyên ngành, đặc biệt Bộ Công Thương đã đề nghị được Tổ công tác kiểm tra Bộ ngay trong tháng 9; biểu dương đối với các Bộ đã hoàn thành 100% nhiệm vụ giao, gồm: Khoa học và công nghệ, Kế hoạch và Đầu tư, Lao động, Thương binh và Xã hội, Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

[...]