VĂN
PHÒNG CHÍNH PHỦ
TỔ CÔNG TÁC CỦA TTgCP
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 251/BC-TCTTTg
|
Hà
Nội, ngày 04 tháng 07
năm 2018
|
BÁO CÁO
TÌNH
HÌNH BAN HÀNH VĂN BẢN QUY ĐỊNH CHI TIẾT LUẬT, PHÁP LỆNH; KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM
VỤ DO CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ GIAO VÀ KẾT QUẢ KIỂM TRA THÁNG 6 VÀ 6
THÁNG ĐẦU NĂM 2018
I. TÌNH HÌNH BAN
HÀNH VĂN BẢN QUY ĐỊNH CHI TIẾT
- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng,
Văn phòng Chính phủ đã ban hành văn bản số 4331/VPCP-PL ngày 11 tháng 5 năm
2018 đề nghị các đồng chí Bộ trưởng có các dự thảo văn bản nợ đọng báo cáo giải
trình và cam kết tiến độ với Chính phủ.
- Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ
tháng 5 năm 2018, Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ đã có báo cáo và kiến nghị
cụ thể với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tình hình nợ đọng văn bản quy định
chi tiết thi hành Luật, Pháp lệnh đã có hiệu lực và có hiệu
lực từ ngày 01/7/2018.
Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường
kỳ tháng 5 năm 2018 (Nghị quyết số 74/NQ-CP ngày 07 tháng 6 năm 2018), Chính phủ
đã yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ tăng cường kỷ luật, kỷ cương
trong xây dựng thể chế, pháp luật; khẩn trương hoàn thiện, trình ban hành và
ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định chi tiết còn nợ đọng và các văn bản
quy định chi tiết các luật, pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2018,
không để tiếp tục xảy ra tình trạng nợ đọng nhưng đến nay số văn bản quy định
chi tiết nợ đọng vẫn chưa được xử lý dứt điểm. Cụ thể:
1. Văn bản nợ đọng quy định chi tiết
thi hành các luật có hiệu lực từ 01/01/2018 (Phụ lục
I)
- Hiện còn nợ 4 Nghị định của Chính
phủ, thuộc trách nhiệm soạn thảo, trình của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài
chính, Nội vụ, Lao động - Thương binh và Xã hội; 01 Quyết định thuộc thẩm quyền
ban hành của Thủ tướng Chính phủ (cơ quan soạn thảo: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch).
- Các Bộ còn nợ 6 thông tư, gồm: Bộ
Công an: 01 thông tư và 02 thông tư liên tịch; Bộ Thông tin và truyền thông: 01
thông tư; Bộ Công Thương: 02 thông tư.
2. Văn bản quy định chi tiết thi
hành luật có hiệu lực từ ngày 01/7/2018 (Phụ lục I)
- Đối với các Nghị định: Hiện còn 08
Nghị định chưa được ban hành, thuộc trách nhiệm soạn thảo, trình của các Bộ:
Tài chính: 05; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: 01; Kế hoạch và Đầu tư: 01;
Ngoại giao: 01. Trong đó, có 07 văn bản được phép áp dụng trình tự thủ tục rút
gọn, sẽ có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành và 01 văn bản được soạn thảo theo
trình tự thủ tục thông thường (thuộc trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn), sẽ có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày ký ban hành.
- Đối với thông tư: Hiện còn 08 thông
tư chưa được ban hành thuộc trách nhiệm của các Bộ: Công an: 02; Quốc phòng:
04; Tài chính: 01; Công Thương: 01.
II. KẾT QUẢ THỰC
HIỆN NHIỆM VỤ DO CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ GIAO 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2018
Từ ngày 01/01/2018 đến 30/6/2018, có
tổng số 12.295 nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao các bộ, cơ quan,
địa phương. Trong đó, có 5.058 nhiệm vụ đã hoàn thành (đúng hạn: 4.458, quá hạn:
600); 7.237 nhiệm vụ chưa hoàn thành (trong hạn: 7.098, quá
hạn: 139 - chiếm 2,6%, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm
trước) (Phụ lục II).
III. KẾT QUẢ KIỂM TRA THÁNG 6 VÀ
6 THÁNG ĐẦU NĂM 2018
1. Kết quả kiểm
tra của Tổ công tác tháng 6 năm 2018
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ, trong tháng 6 năm 2018, Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra Bộ Nội vụ
và Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh trong việc thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ giao. Tổ công tác xin báo cáo Chính phủ về kết quả kiểm tra như
sau:
a) Kết quả kiểm tra tại Bộ Nội vụ
Với sự chủ động, quyết liệt trong chỉ
đạo, điều hành của lãnh đạo Bộ và sự cố gắng, nỗ lực của các đơn vị trực thuộc,
Bộ đã đạt được nhiều kết quả trên các mặt công tác, như: công tác hoàn thiện thể
chế được đẩy mạnh và có nhiều cải cách, đổi mới, thể hiện sự quyết liệt, mạnh mẽ
về phân cấp trong công tác cán bộ, đã được bộ, ngành, địa phương đánh giá cao
(từ năm 2017 đến nay, Bộ đã trình ban hành và ban hành theo thẩm quyền 01 dự án
Luật, 11 Nghị định, 16 Thông tư, 04 Nghị quyết và 03 Đề án...); chủ động, tích
cực phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện các quy
định của pháp luật về công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, thôi giữ chức
vụ, từ chức, miễn nhiệm và luân chuyển đối với công chức, viên chức lãnh đạo...;
có nhiều cải cách trong việc thi nâng ngạch công chức, viên chức theo hướng
phân cấp cho bộ, ngành, địa phương; thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về
tôn giáo, bảo đảm ổn định, chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và tuân thủ đúng pháp luật;
với trách nhiệm là cơ quan thường trực cải cách hành chính (CCHC), Bộ đã tích cực,
chủ động hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương tổ chức quán triệt, triển
khai thực hiện các nhiệm vụ CCHC theo quy định tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP và
Quyết định số 225/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; công tác cải cách hành chính
của Bộ có chuyển biến (chỉ số CCHC năm 2017 của Bộ tăng 01
bậc so với năm 2016 và đứng thứ 09/19 Bộ; đã hoàn thành việc xây dựng triển
khai cung cấp 50 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3); tích cực, nghiêm túc trong
việc thực hiện nhiệm vụ giao (từ ngày 01/01/2017 đến 15/6/2018, Bộ được giao
518 nhiệm vụ. Đã hoàn thành 363 nhiệm vụ; 152 nhiệm vụ đang triển khai thực hiện
trong hạn; 03 nhiệm vụ quá hạn.
Bên cạnh kết quả đạt được nêu trên,
Thủ tướng yêu cầu Bộ Nội vụ tiếp tục có những cải cách, đổi mới và quyết liệt
hơn đối với một số mặt công tác: biên chế tiền lương; sắp xếp, tinh gọn bộ máy
tổ chức, nhất là tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp công lập; vấn đề bổ nhiệm,
quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức; công tác cải cách hành
chính và vấn đề quản lý Hội và tôn giáo, tín ngưỡng...
b) Kết
quả kiểm tra tại Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh
Từ ngày 01/01/2017 đến 15/6/2018, Ủy
ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh được giao 271 nhiệm vụ. Trong đó, đã hoàn thành 209
nhiệm vụ; chưa hoàn thành trong hạn 62 nhiệm vụ.
Với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt,
năng động, sáng tạo của lãnh đạo tỉnh và sự đoàn kết, cố gắng, nỗ lực của chính
quyền, quân và dân tỉnh Bắc Ninh, trong 6 tháng đầu năm
2018, Bắc Ninh đã đạt được nhiều kết quả tích cực trên các
mặt công tác, cụ thể: GRDP 6 tháng đầu năm tăng 17% so cùng kỳ năm trước; thu
ngân sách đạt 13.673 tỷ đồng, đạt 57,3% dự toán năm, tăng 21,7% so cùng kỳ; cơ
cấu kinh tế chuyển dịch mạnh sang công nghiệp và dịch vụ
(hiện nông nghiệp chỉ chiếm 3%, công nghiệp - dịch vụ chiếm 97%); năng suất lao
động tăng cao (năng suất lao động bình quân năm 2018 ước
tính đạt 273,9 triệu đồng, cao gấp 3,6 lần năm 2010 và 1,4
lần năm 2015); có nhiều chính sách
khuyến khích, thúc đẩy tích tụ, tập trung đất đai để sản xuất hàng hóa quy mô lớn
(có 60 tổ chức, cá nhân thực hiện tập trung, tích tụ đất đai, với tổng diện
tích 635 ha); việc thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người
dân, doanh nghiệp được triển khai tích cực, nghiêm túc; công tác cải cách hành
chính theo hướng hiện đại hóa, tinh gọn, hiệu quả nhằm thu hút đầu tư, cải thiện
môi trường kinh doanh, cụ thể: 100% TTHC được thực hiện tại Trung tâm hành
chính công của tỉnh, rà soát, cắt giảm 50% thời gian giải quyết các thủ tục so
với quy định hiện hành, nâng chỉ năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2017 xếp
thứ 34/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tăng 6 bậc so với năm 2016; chỉ
số hiệu quả quản trị hành chính công (PAPI) tăng 4 bậc (từ thứ 13 năm 2016 lên
thứ 9 năm 2017); có 484/1697 TTHC đạt cấp độ 3 và 4; các lĩnh vực văn hóa giáo
dục, an sinh, phúc lợi xã hội tiếp tục được quan tâm, tích cực xây dựng các thiết
chế văn hóa, giáo dục, xã hội, thể thao... tại các khu công nghiệp nhằm nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được,
một số mặt công tác, Thủ tướng yêu cầu Tỉnh tiếp tục quan tâm, chỉ đạo quyết liệt
hơn, như: công tác quản lý về môi trường; vấn đề quản lý đất đai; giải quyết
khiếu nại, tố cáo; bảo đảm an ninh trật tự, nhất là tại các khu công nghiệp; vấn
đề bảo đảm an sinh xã hội cho công nhân tại các khu công nghiệp...
2. Kết quả kiểm
tra của Tổ công tác 6 tháng đầu năm 2018
a) Kết
quả đạt được
Trong 6 tháng đầu năm 2018, Tổ công
tác đã tiến hành 11 cuộc kiểm tra. Trong đó, có 04 cuộc kiểm tra về việc thực
hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và việc
thực hiện các giải pháp nhằm bảo đảm mục tiêu tăng trưởng của năm 2018 tại 03 Bộ,
địa phương và 01 Tổng công ty nhà nước (Nội vụ, Thái Bình, Bắc Ninh, Tổng công
ty công nghiệp Xi măng Việt Nam); 07 cuộc kiểm tra chuyên đề đối với 16 Bộ, cơ quan (Công an, Quốc phòng, Tư
pháp, Công Thương, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Giao thông vận tải, Xây dựng,
Khoa học và Công nghệ, Lao động, Thương binh và Xã hội, Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Thông tin và Truyền thông, Văn
hóa, Thể thao và Du lịch và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) trong việc cải cách,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động KTCN đối với hàng hóa xuất nhập và việc
rà soát, đơn giản, cắt giảm các ĐKKD còn chồng chéo, bất hợp lý, không cần thiết,
gây cản trở đến hoạt động kinh doanh, gia nhập thị trường của doanh nghiệp.
Sau mỗi cuộc kiểm tra, Tổ công tác đã
có báo cáo kết quả kiểm tra tại Bộ, cơ quan, địa phương trong phiên họp Chính
phủ thường kỳ hàng tháng. Các báo cáo của Tổ công tác đánh giá đầy đủ, khách
quan, trung thực những kết quả đạt được của Bộ, cơ quan, địa phương được kiểm
tra, đồng thời cũng thẳng thắn chỉ ra những vấn đề còn tồn tại, hạn chế, yếu
kém, dư luận quan tâm, bức xúc; những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách
cần được tháo gỡ; những nhiệm vụ quá hạn còn nợ đọng liên quan đến hoàn thiện
thể chế, đến đời sống người dân và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp cần khẩn trương thực hiện.
Trên cơ sở các kiến nghị của Tổ công
tác tại các phiên họp Chính phủ thường kỳ hàng tháng, Thủ tướng Chính phủ đã có
văn bản chỉ đạo yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương triển khai thực hiện ngay một
số nhiệm vụ để khắc phục, chấn chỉnh những hạn chế, bất cập liên quan đến công
tác chỉ đạo, điều hành của bộ, cơ quan, địa phương mình và tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc liên quan quan đến cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường
đầu tư kinh doanh thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp mà Tổ công tác đã kiến
nghị, như: Việc thay đổi chính sách thuế quy định tại khoản 4, Điều 10 Nghị định
134/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016; việc áp dụng cho các nhà đầu tư nước
ngoài và các trường hợp hạn chế tỷ lệ sở hữu nước ngoài của các doanh nghiệp
niêm yết, đăng ký giao dịch tập trung theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 2
Nghị định 60/2015/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2015; việc thực hiện thống nhất quy
định tại Nghị định số 154/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2016; bất cập của Luật
điện ảnh; về chế độ đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao; hướng dẫn
cụ thể về cơ chế thuê, thuê mua các dịch vụ công và cơ chế đấu thầu quyền quản
lý khai thác các công trình công thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao của các địa
phương; đề xuất cơ chế, chính sách cho việc thực hiện thí điểm tập trung, tích
tụ đất đai để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay cho người
dân và doanh nghiệp tham gia tích tụ, tập trung đất đai
trong khi chờ sửa đổi, bổ sung Luật đất đai; việc thực hiện thống nhất quy định
tại Nghị định số 154/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2016 của Chính phủ để tháo
gỡ, khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp thủy sản; việc thực hiện thí điểm
xây dựng chính quyền điện tử tại địa phương...
Kết quả kiểm tra của Tổ công tác đã
đem lại hiệu quả rất cụ thể, tạo chuyển động thực sự về kỷ luật, kỷ cương hành
chính. Việc thực hiện nhiệm vụ giao được thực hiện nghiêm túc và tiếp tục có
chuyển biến tích cực. Trong 6 tháng đầu năm 2018, số nhiệm vụ quá hạn chỉ chiếm
2,6%, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước và giảm 22,4% so với trước khi Tổ công
tác được thành lập.
Đặc biệt, các cuộc kiểm tra chuyên đề
về cải cách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động KTCN đối với hàng hóa xuất
nhập khẩu và việc rà soát, đơn giản, cắt giảm các ĐKKD để tạo dư địa cho tăng
trưởng đã tạo hiệu ứng, lan tỏa mạnh mẽ, tích cực đến các Bộ, cơ quan, địa
phương và đã được cộng đồng doanh nghiệp và người dân hoan nghênh, đánh giá cao. Đến nay, nhiều bất cập, tồn tại
về KTCN đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đã được khắc phục, như: Đẩy mạnh áp dụng
quản lý rủi ro, chuyển mạnh sang hậu kiểm (Bộ Y tế đã chuyển sang hậu kiểm 95% danh
mục hàng hóa thuộc lĩnh vực ATTP; Khoa học và công nghệ đã chuyển 279/299 -
93,3% danh mục hàng hóa phải KTCN sang hậu kiểm...); giảm cơ bản danh mục hàng
hóa KTCN còn chồng chéo; ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với danh mục
sản phẩm, hàng hóa phải KTCN; đẩy mạnh công nhận lẫn nhau,
xã hội hóa công tác kiểm tra, kiểm nghiệm (không còn tình
trạng độc quyền); thực hiện cải cách, cắt giảm các thủ tục KTCN chồng chéo; hầu
hết danh mục hàng hóa được ban hành đã gắn kèm mã số HS...; việc rà soát, xây dựng
phương án đơn giản, cắt giảm ĐKKD đã được các Bộ, cơ quan triển khai tích cực.
Hầu hết các Bộ đã xây dựng được phương án đơn giản, cắt giảm các ĐKKD còn chồng
chéo, bất hợp lý, không cần thiết và đang khẩn trương xây
dựng Nghị định sửa nhiều Nghị định liên quan đến ĐKKD, với
tỷ lệ đơn giản, cắt giảm đạt từ 43% - 55,1% (Bộ Công Thương đã trình Chính phủ
ban hành Nghị số 08/2018/NĐ-CP ngày 15/1/2018, theo đó 675
ĐKKD đã được cắt giảm; các Bộ: Xây dựng, Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đang trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa nhiều Nghị định
về cắt giảm ĐKKD, đạt từ 53 - 55%)…
b) Một số tồn tại, hạn chế
- Các bộ, cơ quan, địa phương được kiểm
tra chưa có giải pháp tích cực, hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ giao, nhất
là các Bộ quản lý, KTCN (13 Bộ) đối với hàng hóa xuất nhập khẩu và các Bộ, cơ
quan (16 Bộ, cơ quan) có ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Cụ thể:
+ Sau nhiều cuộc kiểm tra chuyên đề về
KTCN với nhiệm vụ giao cụ thể nhưng đến nay nhiều hạn chế, bất cập liên quan đến
hoạt động KTCN chưa được các Bộ khắc phục triệt để, như: Tỷ lệ cắt giảm danh mục
sản phẩm, hàng hóa KTCN chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu chỉ đạo
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
(có 04 bộ đạt chỉ tiêu cắt giảm từ 50% trở lên gồm: Khoa học và Công nghệ, Giao
thông vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng); một số danh mục sản phẩm, hàng hóa KTCN cắt giảm,
đơn giản hóa còn mang tính gộp cơ học để giảm về số lượng nhưng thực chất vẫn
phải thực hiện KTCN; còn danh mục hàng hóa đã ban hành nhưng chưa có mã số HS;
một số nhóm hàng hóa phải ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn nhưng chưa ban hành
quy chuẩn, tiêu chuẩn; còn tình trạng “điện tử nửa vời” trong việc thực hiện
các thủ tục KTCN...
+ Việc rà soát, đơn giản, cắt giảm
các ĐKKD triển khai chậm, một số Bộ chưa tích cực. Hầu hết các Bộ đang trong
quá trình rà soát, đề xuất phương án. Trong phương án đề xuất đơn giản hóa, cắt
giảm ĐKKD, một số Bộ chưa đạt tỷ lệ theo chỉ đạo của CP, TTgCP là 50%, cá biệt
có Bộ chưa có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về phương án đơn giản, cắt giảm ĐKKD
và danh mục hàng hóa, thủ tục KTCN)...
- Việc kiểm tra mới chỉ dừng lại ở mức
độ kiểm tra theo đầu việc, tiến độ giao, chưa kiểm tra,
đánh giá chất lượng, kết quả thực hiện theo yêu cầu đề ra. Vì vậy, có tình trạng
thực hiện nhiệm vụ giao mang tính đối phó, nhất là khi Tổ công tác chuẩn bị tiến
hành kiểm tra.
IV. KIẾN NGHỊ, ĐỀ
XUẤT CỦA TỔ CÔNG TÁC
Căn cứ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ
do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao 6 tháng đầu năm
2018 và trên cơ sở kết quả kiểm tra tháng 6 và 6 tháng đầu
năm 2018, Tổ công tác kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các
Bộ, cơ quan, địa phương triển khai ngay một số nhiệm vụ sau:
1. Đối với các Bộ, ngành còn nợ đọng
văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh
- Các Bộ, ngành cần thực hiện nghiêm
sự chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ và có giải pháp hiệu quả, tập
trung cao độ các nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ xây dựng trình ban hành và ban
hành theo thẩm quyền các văn bản quy định chi tiết các Luật, Pháp lệnh đã có hiệu
lực còn nợ đọng, khắc phục triệt để tình trạng nợ đọng tiếp theo.
- Bộ Tư pháp thực hiện tốt việc theo
dõi, đôn đốc, kiểm tra các bộ, ngành trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy
định chi tiết; kịp thời tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải
pháp để đẩy nhanh tiến độ soạn thảo, trình ban hành các văn bản quy định chi tiết
thi hành luật, pháp lệnh.
2. Đối với các bộ, cơ quan, địa
phương nói chung
- Các Bộ, cơ quan, địa phương cần chỉ
đạo quyết liệt hơn nữa trong việc thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ giao với tinh thần không để nợ đọng nhiệm vụ, không chờ đến hạn mới xử
lý, thực hiện; khi có khó khăn, vướng mắc cần chủ động tìm
giải pháp tháo gỡ hoặc thông tin, phản ánh, phối hợp kịp thời với Văn phòng
Chính phủ để tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hướng xử lý,
giải quyết.
- Thường xuyên rà soát nhiệm vụ giao
và cập nhật đầy đủ, kịp thời kết quả thực hiện nhiệm vụ
lên Hệ thống QLCSDLTD để bảo đảm số liệu trên Hệ thống QLCSDLTD phản ánh đúng
thực tế triển khai, thực hiện, tạo thuận lợi cho công tác thống kê, tổng hợp,
báo cáo, đánh giá.
- Tiếp tục tập trung, ưu tiên cho
công tác hoàn thiện thể chế; nghiên cứu, rà soát những vướng mắc tại các luật,
pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, của Bộ, ngành mình
và của các Bộ, ngành khác có liên quan để phát hiện những quy định bất hợp lý,
đặc biệt là những quy định còn là rào cản, gây cản trở đến đầu tư, kinh
doanh... chủ động kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời hoặc bãi bỏ theo
thẩm quyền để tháo gỡ khó khăn, tạo môi trường đầu tư,
kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, minh bạch cho người dân và doanh nghiệp.
3. Đối với các Bộ, địa phương được
kiểm tra trong tháng 6 và Bộ, cơ quan liên quan
a) Đối với Bộ Nội vụ
- Quan tâm, chú trọng và quyết liệt hơn nữa trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; khẩn trương rà soát và
hoàn thành các nhiệm vụ giao liên quan đến công tác xây dựng thể chế, nhất là
các nhiệm vụ giao đã quá hạn (03 nhiệm vụ); phối hợp chặt
chẽ với Văn phòng Chính phủ để kịp thời xử lý các vấn đề còn có ý kiến khác nhau hoặc khi có vướng mắc
phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giao nhằm khắc phục triệt để tình
trạng nợ đọng nhiệm vụ giao.
- Nghiên cứu, tham mưu đề xuất với
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ việc cụ thể hóa chủ trương thực hiện thí điểm
tuyển chọn các chức danh lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng bằng quy định
cụ thể của pháp luật để việc thực hiện được thống nhất, đồng bộ và hiệu quả.
- Kịp thời tham mưu, đề xuất cho
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các chủ trương, chính sách và giải pháp để đẩy mạnh
CCHC nhà nước, xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu
quả, thông suốt từ Trung ương đến địa phương, trong đó chú trọng cải cách chính
sách tiền lương và chất lượng dịch vụ hành chính, chất lượng dịch vụ công.
- Đổi mới, cải cách hơn nữa trong
công tác CCHC của Bộ; khẩn trương hoàn thành việc rà soát và đề xuất phương án
đơn giản hóa TTHC và công khai TTHC của Bộ trên cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC
để tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án Luật,
Nghị định, Đề án đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao liên quan bộ máy tổ
chức, tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức, viên chức, bảo đảm đồng bộ giữa
quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước theo hướng phân cấp mạnh mẽ cho bộ,
cơ quan, địa phương.
- Đổi mới mạnh mẽ
công tác quản lý biên chế, triển khai thực hiện tốt Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức; có biện pháp chấn chỉnh kịp thời đối với các
bộ, cơ quan, địa phương giao vượt chỉ tiêu biên chế, tiếp
nhận sử dụng biên chế sai quy định, vượt thẩm quyền; tăng cường công tác kiểm
tra, thanh tra ngay từ khâu tuyển dụng đến đánh giá, phân loại cán bộ, công chức,
viên chức; kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế đối với
cán bộ, công chức, viên chức làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ.
- Chủ động, tích cực hơn nữa trong việc
đôn đốc của các bộ, ngành, địa phương khẩn trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ; chuyển đổi mạnh mẽ mô hình hoạt động các đơn vị
sự nghiệp công lập theo hướng tự chủ theo đứng tinh thần của Nghị quyết số
19-NQ/TW, Nghị quyết số 26-NQ/TW và Nghị quyết số 27-NQ/TW của Bộ Chính trị.
b) Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc
Ninh
- Tăng cường quản lý nhà nước về đất
đai; thực hiện đúng quy định của pháp luật trong việc xác định giá đất để thực
hiện các dự án BT, đấu giá và chuyển mục đích sử dụng đất, tránh để xảy ra thất
thoát.
- Tăng cường trách nhiệm các cơ quan
liên quan trong quản lý nhà nước, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu về bảo
vệ môi trường trên địa bàn tỉnh; kiểm soát chặt chẽ việc xả thải của các nhà
máy, cơ sở sản xuất; xử lý nghiêm các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh,
cá nhân, tổ chức không tuân thủ nghiêm túc quy định về bảo vệ môi trường, có
hành vi vi phạm quy định về xả thải, đổ chất thải sinh hoạt, chất thải nguy hại
ra môi trường, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường,
cuộc sống, sức khỏe của người dân, nhất là tại các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp và các làng nghề.
- Quan tâm, bảo đảm an sinh xã hội cho
công nhân tại các khu công nghiệp; dành nguồn ưu tiên để đầu tư, xây dựng các
thiết chế văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ tại
các khu công nghiệp để phục vụ đời sống của công nhân; có biện pháp bảo đảm an
ninh trật tự, tăng cường công tác trấn áp và phòng chống tội phạm tại các khu
công nghiệp.
- Tiếp tục có chính sách ưu đãi, khuyến
khích tích tụ, tập trung đất đai nhằm phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn;
tổ chức lại sản xuất, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp
để tạo ra hàng hóa, sản phẩm cạnh tranh, có thương hiệu trên thị trường; phát
triển dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại
gắn với việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích lịch sử và các loại
hình văn hóa phi vật thể vốn có của địa phương.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính theo hướng hiện đại; quyết liệt giảm bớt thủ tục hành chính, đẩy mạnh
thực hiện dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, 4; xây dựng chính quyền điện tử gắn
với đô thị thông minh và có những đột phá mới trong chỉ đạo, điều hành để cải
thiện hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
tỉnh, thu hút đầu tư, phát huy tiềm năng, thế mạnh của tỉnh
để sớm xây dựng tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc
Trung ương.
- Tiếp tục thực hiện tốt công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, giải
phóng mặt bằng; kịp thời đối thoại công khai, trực tiếp với người dân để tuyên
truyền, giải thích cho người dân hiểu đúng vấn đề, tuân thủ đúng pháp luật để
không xảy ra khiếu kiện đông người, phức tạp.
c) Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ
quan liên quan khẩn trương thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao có liên
quan đến tỉnh Bắc Ninh tại Thông báo số 132/TB-VPCP ngày 13 tháng 3 năm 2017 của
Văn phòng Chính phủ.
- Khẩn trương có báo cáo thẩm định,
trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định cho chủ trương đầu tư Dự án đầu
tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Yên Phong II-C, tỉnh
Bắc Ninh của Tổng Công ty Viglacera./.
Nơi nhận:
- Các thành viên Tổ công
tác;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ;
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương;
- VPCP: Các PCN, các Vụ, Cục,
Cổng thông tin điện tử CP;
- Lưu: Văn thư, TCTTTg (3b).
|
TỔ TRƯỞNG
Mai Tiến Dũng
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM VPCP
|