Báo cáo 3310/BC-BNN-PC về Công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính 06 tháng đầu năm 2015 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
Số hiệu | 3310/BC-BNN-PC |
Ngày ban hành | 25/04/2015 |
Ngày có hiệu lực | 25/04/2015 |
Loại văn bản | Báo cáo |
Cơ quan ban hành | Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn |
Người ký | Hà Công Tuấn |
Lĩnh vực | Vi phạm hành chính |
BỘ NÔNG NGHIỆP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3310/BC-BNN-PC |
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2015 |
CÔNG TÁC THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH 06 THÁNG ĐẦU NĂM 2015
Thực hiện quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20/6/2012 (Luật XLVPHC) và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC về việc lập báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hàng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Bộ Tư pháp công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính 06 tháng đầu năm 2015 như sau:
I. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT XLVPHC VÀ CÁC VĂN BẢN QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH LUẬT
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quyết định số 5026/QĐ-BNN-TTr ngày 21/11/2014 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt Kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2015 của các Tổng cục, Cục trọng tâm là công tác thanh tra chuyên ngành, đảm bảo công tác an toàn thực phẩm, vật tư nông nghiệp.
- Trong 06 tháng đầu năm 2015, các Tổng cục, Cục đã thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo tập huấn hướng dẫn nghiệp vụ về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, tuyên truyền, phổ biến tập trung các Nghị định do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì xây dựng (gồm 05 Nghị định: Nghị định số 103/2013/NĐ-CP ngày 12/9/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản; Nghị định số 114/2013/NĐ-CP ngày 03/10/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Nghị định số 119/2013/NĐ-CP ngày 09/10/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú y, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi; Nghị định số 139/2013/NĐ-CP ngày 22/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; đê điều; phòng, chống lụt, bão; Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản) và các văn bản có liên quan đến chức năng quản lý của ngành như: Nghị định 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; Nghị định số 185/2013/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Thông tư số 153/2013/TT-BTC ngày 31/10/2013 của Bộ Tài chính quy định về thủ tục thu, nộp tiền phạt, biên lai thu tiền phạt và kinh phí từ ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động của các lực lượng xử phạt vi phạm hành chính đến các cán bộ, công chức của đơn vị.
- Thanh tra Bộ đã tổ chức 03 lớp tập huấn nghiệp vụ về xử phạt vi phạm hành chính cho 331 công chức thanh tra chuyên ngành của các Tổng cục, Cục được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
- Bộ đã chỉ đạo các Tổng cục, Cục tổ chức các cuộc kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại các đơn vị trực thuộc, các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo lĩnh vực đơn vị quản lý.
- Thực hiện Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP, Bộ giao cho Vụ Pháp chế là đơn vị chủ trì thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, cử cán bộ chuyên trách thực hiện công tác này. Kinh phí để đảm bảo thực hiện công tác này đã được bố trí đầy đủ. Các đơn vị đã và đang đầu tư cơ sở vật chất như máy tính, máy in... bố trí cán bộ hướng dẫn và thực hiện công tác xử phạt vi phạm hành chính.
II. BÁO CÁO VỀ TÌNH HÌNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1. Tình hình vi phạm hành chính
Tình hình vi phạm hành chính trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn 06 tháng đầu năm 2015 chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: Bảo vệ thực vật và lĩnh vực thú y với chủ yếu là các vi phạm như: không có Giấy phép kiểm dịch nhập khẩu; Không có Giấp chứng nhận kiểm dịch của nước xuất khẩu; hồ sơ Kiểm dịch không hợp lệ, lỗi về nhãn hàng hóa, nhập khẩu động vật mang mầm bệnh nguy hiểm, đưa động vật về nơi cách ly không đúng theo quy định...
2. Kết quả công tác xử phạt vi phạm hành chính
- Lĩnh vực Lâm nghiệp: tổng số vụ vi phạm hành chính bị phát hiện 01, đã xử lý 01 vụ đối với tổ chức. Tổng số tiền phạt thu được là 15.000.000đ.
- Lĩnh vực Bảo vệ thực vật:
+ 09 vụ vi phạm hành chính về thuốc bảo vệ thực vật, tổng số tiền phạt thu được là 160.000.000đ.
+ 775 vụ vi phạm hành chính về kiểm dịch thực vật, tổng số tiền phạt thu được là 13.568.000.000đ.
- Lĩnh vực thú y: tổng số vụ vi phạm hành chính bị phát hiện và đã xử lý 35 vụ đối với tổ chức với tổng số tiền phạt thu được là 902.100.000đ.
- Lĩnh vực Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản: tổng số vụ vi phạm hành chính bị phát hiện và đã xử lý 05 vụ đối với tổ chức với tổng số tiền phạt thu được là 88.000.000đ.
- Lĩnh vực thủy sản: tổng số vụ vi phạm hành chính bị phát hiện 5, đã xử lý 1 vụ đối với tổ chức, tổng số tiền phạt thu được là 20.000.000đ.
- Thanh tra Bộ: tổng số vụ vi phạm hành chính bị phát hiện 7, đã xử lý 5 vụ đối với tổ chức, tổng số tiền phạt thu được là 311.000.000đ.
(Bảng tổng hợp số liệu cụ thể ban hành kèm theo Báo cáo này).
Nhìn chung, kể từ khi các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong ngành nông nghiệp có hiệu lực thì số vụ vi phạm hành chính đã giảm hơn trước vì các Nghị định đã tăng mức xử phạt và bổ sung thêm các biện pháp khắc phục hậu quả, đặc biệt là bổ sung quy định công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với việc xử phạt cá nhân, tổ chức trong việc thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
3. Khó khăn, vướng mắc, bất cập trong công tác xử phạt vi phạm hành chính
- Hầu hết các hành vi vi phạm hành chính bị phát hiện đều có mức xử phạt vượt quá thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành, dẫn tới khó khăn trong việc ra quyết định xử phạt. Luật Xử lý vi phạm hành chính không giao Chi cục trưởng các Chi cục vùng trực thuộc Cục có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, do đó các vụ vi phạm do các đơn vị này thực hiện nhiệm vụ phát hiện, chỉ lập biên bản vi phạm và gửi hồ sơ về Cục để Cục trưởng ra quyết định xử phạt nên gây mất thời gian và gây khó khăn cho đối tượng vi phạm trong việc giải phóng hàng hóa.
- Các hành vi vi phạm về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thường xảy ra ở vùng sâu, vùng núi nên khó khăn trong công tác điều tra xác định đối tượng vi phạm. Cơ chế phối hợp giữa các ngành chưa đồng bộ nên tạo kẽ hở cho vi phạm. Việc truy tố, xét xử các vụ án hình sự trong lĩnh vực quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản đạt tỷ lệ thấp và chậm nên hạn chế tính giáo dục, răn đe.
- Một số hành vi vi phạm hành chính chưa có chế tài xử phạt, một số hành vi vi phạm có bản chất giống nhau nhưng mức xử phạt ở các văn bản chuyên ngành lại khác nhau.
- Các công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác thanh tra và xử lý vi phạm hành chính. Lực lượng công chức làm công tác thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm còn thiếu, chưa được đào tạo chuyên sâu.