CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 222/BC-CP
|
Hà Nội, ngày 09
tháng 6 năm 2022
|
BÁO CÁO GIẢI TRÌNH VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN
TẠI
KỲ HỌP THỨ 3, QUỐC HỘI KHOÁ XV
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam!
Kính thưa Đoàn Chủ tịch, các vị đại biểu Quốc hội
và đồng bào, cử tri cả nước!
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn các vị đại biểu
Quốc hội, đồng bào, cử tri cả nước đã cơ bản đồng tình và đóng góp nhiều ý kiến
tâm huyết, sâu sắc, trách nhiệm, xây dựng về các báo cáo của Chính phủ, nhất là
Báo cáo bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH)
năm 2021 và tình hình thực hiện kế hoạch phát triển KTXH những tháng đầu năm
2022.
Hầu hết đại biểu Quốc hội đánh giá cao kết quả đạt
được, trong đó khẳng định dịch bệnh được kiểm soát vững chắc hơn; kinh tế vĩ mô
ổn định; các cân đối lớn được bảo đảm; các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường
chuyển biến tích cực; quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị được giữ vững; trật
tự, an toàn xã hội được bảo đảm; công tác đối ngoại được đẩy mạnh; đời sống người
dân tiếp tục được cải thiện. Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh,
phức tạp, khó lường, cùng với tác động nặng nề của đại dịch COVID-19 và xung đột
Nga - Ucraina, những kết quả đạt được là rất cơ bản và rất đáng trân trọng, tạo
không khí phấn khởi trong toàn xã hội, góp phần tăng cường, củng cố niềm tin của
Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, các vị
đại biểu Quốc hội, cử tri cũng đề cập đến những tồn tại, hạn chế, bất cập trên
nhiều lĩnh vực cần khẩn trương khắc phục, xử lý hiệu quả.
Chính phủ xin trân trọng lắng nghe, nghiêm túc tiếp
thu ý kiến các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu, các vị đại biểu Quốc hội
và ý kiến của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của đồng bào, cử tri
cả nước. Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương tập trung xử lý,
giải quyết, nhất là những khó khăn, vướng mắc và các vấn đề thực tiễn đặt ra
trên các lĩnh vực, tiếp tục kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, phục hồi nhanh và
phát triển bền vững KTXH.
Trong hơn 2 ngày qua, đã có 03 Bộ trưởng và Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trực tiếp trả lời chất vấn; 02 Phó Thủ tướng và nhiều
thành viên Chính phủ tham gia giải trình, trả lời chất vấn bổ sung tại Hội trường.
Đối với những vấn đề chất vấn bằng văn bản hoặc các vị đại biểu Quốc hội chất vấn
trực tiếp nhưng chưa được trả lời, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các thành viên
Chính phủ nghiêm túc trả lời bằng văn bản gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. Sau
đây, theo phân công của Thủ tướng, thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo, giải
trình một số vấn đề được đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri quan tâm, chất vấn.
1. Cập nhật tình hình KTXH
Đầu kỳ họp, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội về tình
hình KTXH 4 tháng đầu năm 2022. Trong tháng 5 và những ngày đầu tháng 6, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu
quả các nhiệm vụ, giải pháp theo các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội,
Chính phủ và đạt được những kết quả tích cực trên các lĩnh vực.
Dịch COVID-19 tiếp tục được kiểm soát tốt trên toàn
quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi và phát triển KTXH. Kinh tế vĩ mô tiếp
tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát1. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi; khu vực
nông nghiệp phát triển ổn định; khu vực dịch vụ phục hồi nhanh2. So với cùng kỳ năm trước, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân
sách nhà nước tháng 5 tăng 10,3%, 5 tháng tăng 9,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài thực hiện trong 5 tháng ước đạt 7,71 tỷ USD, tăng 7,8%; tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu tháng 5 ước đạt 62,69 tỷ USD, tăng 14,5%, tính chung 5 tháng đạt
305,1 tỷ USD, tăng 15,6%; xuất siêu 516 triệu USD; thu ngân sách nhà nước 5
tháng đầu năm đạt 806,4 nghìn tỷ đồng, bằng 57,1% dự toán năm và tăng 18,7% so
với cùng kỳ. Nhiều tổ chức quốc tế đánh giá, dự báo tích cực hơn về kinh tế Việt
Nam, trong đó: chỉ số phục hồi COVID-19 tăng 48 bậc, lên vị trí thứ 14; xếp hạng
tín nhiệm quốc gia dài hạn lên mức BB+, triển vọng “Ổn định”; chỉ số Chính phủ
tốt năm 2022 tăng 4 bậc...3
Các hoạt động chăm lo đối tượng chính sách, người
nghèo, hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh được triển khai
tích cực, hiệu quả; an sinh xã hội được bảo đảm4;
đã xuất cấp trên 27 nghìn tấn gạo cứu đói và cứu trợ thiên tai. Các hoạt động
văn hóa, thể thao, du lịch trở lại bình thường; SEA GAMES 31 được tổ chức chu
đáo, an toàn, thành công trên nhiều mặt. Các lĩnh vực môi trường, cải cách hành
chính, chuyển đổi số được đẩy mạnh; một số công việc tồn đọng nhiều năm như tổ
chức tín dụng yếu kém, các dự án thua lỗ kéo dài từng bước được xử lý; phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được quan tâm chỉ đạo và có những chuyển biến
tích cực. Trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; quốc phòng, an ninh được giữ vững;
đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; Việt Nam vừa được bầu làm Phó Chủ
tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77.
2. Về Chương trình phục hồi và
phát triển KTXH
Ngay sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết số
43/2022/QH15, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 với
các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể.
Đến nay, Chính phủ đã ban hành 06 Nghị định để thực
hiện chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất, chính
sách cho vay, hỗ trợ lãi suất5; Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành 3 Quyết định về hỗ trợ tiền thuê nhà đối với người lao động,
cho vay học sinh, sinh viên và các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công
lập6; đã thông báo tổng mức vốn 149.2017 tỷ đồng, danh mục và mức vốn dự kiến cho 113 nhiệm
vụ, dự án cụ thể8. Cơ chế, chính sách để thực hiện
Chương trình đã cơ bản hoàn thành. Chính phủ cũng đã trình UBTVQH: dự kiến danh
mục, mức vốn bố trí cho nhiệm vụ, dự án9; phương
án điều chỉnh linh hoạt nguồn vốn đầu tư công của Chương trình và Kế hoạch đầu
tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 202510. Việc
triển khai Chương trình được chỉ đạo quyết liệt; nội dung này được đưa vào
Phiên họp Chính phủ thường kỳ hằng tháng và Thủ tướng Chính phủ đã có 03 công
điện để chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện.
Về kết quả, đến hết tháng 5/2022 đã thực hiện khoảng
33,5 nghìn tỷ đồng, trong đó, miễn, giảm thuế, phí 22,6 nghìn tỷ đồng (đạt khoảng
35% kế hoạch); Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân 4.869 tỷ đồng11 cho 4/5 chương trình tín dụng chính sách của Chương
trình; các địa phương đã hỗ trợ tiền thuê nhà cho 2.431 người theo Nghị quyết số
11/NQ-CP.
Tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, thời
gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung chỉ đạo các bộ, cơ quan khắc
phục mọi khó khăn12, triển khai Chương trình
nhanh hơn và hiệu quả, thực chất, trong đó, hoàn thành, ban hành 04 văn bản
trong tháng 6/2022, gồm: (i) hướng dẫn thực hiện cơ chế đặc thù về chỉ định thầu
đối với các gói thầu; (ii) phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm cơ quan chủ
quản thực hiện các dự án, dự án thành phần đầu tư các đoạn tuyến đường bộ cao tốc
theo hình thức đầu tư công; (iii) hướng dẫn việc sử dụng Quỹ Viễn thông công
ích để tiếp tục thực hiện Chương trình “Sóng và máy tính cho em”, hỗ trợ đầu tư
phát triển hạ tầng viễn thông, internet; (iv) sửa đổi Thông tư hướng dẫn về chi
và quản lý Quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp.
3. Về 03 Chương trình mục tiêu
quốc gia
Để triển khai các Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành 19 văn bản13 để phê duyệt, quy định
nguyên tắc, tiêu chí và phân bổ vốn cho 03 Chương trình; tiêu chí phân định vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; danh sách huyện nghèo, xã bãi ngang, ven biển và hải
đảo thuộc đối tượng của Chương trình giảm nghèo bền vững; bộ tiêu chí quốc gia
về nông thôn mới... Căn cứ Nghị quyết số 517/NQ-UBTVQH ngày 22/5/2022 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch vốn đầu tư phát
triển nguồn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 - 2025 cho các địa phương và
giao dự toán ngân sách trung ương 2022 cho các bộ, ngành, địa phương để thực hiện
03 chương trình mục tiêu quốc gia14. Đây là một
nỗ lực rất lớn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ do khối lượng công việc nhiều,
phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng trên phạm vi cả nước và phải rà soát kỹ
để tránh những sai sót, tiêu cực có thể xảy ra.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn chưa đạt yêu cầu
về thời gian do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có một số
nguyên nhân chủ yếu sau: (i) ảnh hưởng nhất định của dịch bệnh COVID-19;
(ii) phương án phân bổ vốn thực hiện Chương trình phải căn cứ vào Kế hoạch
đầu tư công trung hạn 2021 - 2025 (tháng 7/2021) và hằng năm (tháng 10/2021); (iii)
Quy trình lập, thẩm định, phê duyệt mất nhiều thời gian do có tính chất đa
ngành, đa lĩnh vực và phải tuân thủ đúng pháp luật; (iv) một số bộ,
ngành, địa phương chậm đề xuất kinh phí, thẩm định nguồn vốn và chưa chủ động,
tích cực trong công tác phối hợp; (v) một số nội dung còn trùng lắp, đan
xen về phạm vi, đối tượng, nội dung hoạt động, chưa phân định rõ nguồn kinh phí
gây khó khăn, chậm trễ cho việc thẩm tra, phê duyệt.
Nhận thức rõ trách nhiệm, thời gian tới, Chính phủ,
Ban Chỉ đạo sẽ chỉ đạo quyết liệt hơn nữa, trong đó yêu cầu:
- Các bộ, ngành tập trung đẩy nhanh tiến độ xây dựng,
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt các chương trình, đề án với lộ trình cụ thể
và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện, trong đó: (i) Đối với Chương
trình phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là Thông tư về
giám sát, đánh giá thực hiện; (ii) Đối với Chương trình giảm nghèo bền vững
là 03 Thông tư hướng dẫn các nội dung mô hình giảm nghèo, kiểm tra đánh giá, dạy
nghề, việc làm và về quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp; (iii) Đối với
Chương trình nông thôn mới là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về điều kiện,
trình tự, thủ tục, hồ sơ xét duyệt địa phương đạt chuẩn nông thôn mới; 06 Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các chương trình chuyên đề15; 02 Thông tư về quản lý, sử dụng kinh phí sự
nghiệp và hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Chương trình.
- Các địa phương khẩn trương giao kế hoạch vốn ngân
sách nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 và năm 2022 trên tinh thần đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền, dám nghĩ, dám làm; chủ động nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính
sách đặc thù phù hợp với địa phương và quy định liên quan theo thẩm quyền. Quá
trình thực hiện tuyệt đối không được để xảy ra tiêu cực, thất thoát ngân sách
nhà nước.
- Các cấp, các ngành tiếp tục nghiên cứu, triển
khai các giải pháp huy động, bổ sung nguồn lực thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia; ưu tiên tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc như đất ở, nhà ở,
đất sản xuất, nước sinh hoạt; đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu cho địa
bàn khó khăn.
- Đẩy mạnh thông tin, truyền thông, nâng cao nhận
thức, tạo sự đồng thuận và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong triển
khai thực hiện; mở rộng phối hợp, hợp tác quốc tế, tranh thủ sự trợ giúp về kỹ
thuật và nguồn lực để thực hiện thành công mục tiêu của các Chương trình.
- Tăng cường công tác phối hợp, đôn đốc, kiểm tra,
giám sát, kiểm soát quyền lực và định kỳ báo cáo sơ kết, tổng kết đánh giá kết
quả thực hiện Chương trình.
4. Về giải ngân vốn đầu tư
công:
Đầu tư công là nguồn lực quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, vừa phải thúc đẩy kịp thời tiến độ vừa phải tính toán kỹ lưỡng
để nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư công. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã
chỉ đạo quyết liệt giải ngân vốn đầu tư công, nhất là trong yêu cầu phục hồi
nhanh, phát triển bền vững KTXH; đã có nhiều văn bản chỉ đạo, tổ chức hội nghị
trực tuyến toàn quốc và thành lập 06 Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ để kiểm
tra, đôn đốc công tác giải ngân vốn đầu tư công. Đến ngày 31/5/2022, đã giải
ngân 22,37% kế hoạch (trong đó, vốn trong nước đạt 23,53%; vốn ODA đạt 6,26%).
Trong tháng 5/2022, 06 Tổ công tác đã làm việc và
kiểm tra thực tế tình hình giải ngân tại các bộ, cơ quan, địa phương. Quá trình
làm việc đã xác định rõ nguyên nhân chậm giải ngân, trong đó, tổ chức thực hiện
được xác định là khâu yếu; trên cơ sở đó, Tổ trưởng các tổ công tác đã chỉ đạo,
yêu cầu thực hiện các giải pháp để phấn đấu hoàn thành giải ngân vốn đầu tư
công trong thời gian tới. Qua làm việc, hầu hết các bộ, cơ quan, địa phương đều
cam kết sẽ có giải pháp mạnh mẽ, cụ thể hơn để hoàn thành giải ngân trên 95% kế
hoạch vốn được giao trong năm 2022.
Tuy nhiên, đúng như ý kiến của các vị đại biểu Quốc
hội, giải ngân vốn đầu tư công vẫn còn chậm; 41/51 bộ, ngành, cơ quan trung
ương và 18/63 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới 20%.
Thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp
tục chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương phải xác định giải ngân vốn đầu tư công
là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm của năm 2022, cần quyết liệt trong chỉ đạo,
điều hành, thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công,
trong đó:
- Khẩn trương rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính
sách, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là về thủ tục đầu tư, đất đai,
xây dựng; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính và
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.
- Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và thi
công; giải quyết kịp thời các vấn đề liên quan đến đất đai, nguyên vật liệu; rà
soát, điều chỉnh kế hoạch vốn giữa các dự án để giải ngân nhanh, hiệu quả. Đề
cao trách nhiệm người đứng đầu về kết quả giải ngân và hiệu quả đầu tư các dự
án.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, siết chặt
kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vụ, xử lý nghiêm các vi phạm và các
chủ đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu cố tình gây khó khăn, cản trở, làm chậm
giải ngân vốn đầu tư công.
- Đề nghị các đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các địa phương tăng cường giám sát công tác giải ngân vốn đầu tư công tại
cơ quan, đơn vị, địa phương mình; kịp thời có ý kiến với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
để thúc đẩy giải ngân, phấn đấu hoàn thành 100% kế hoạch giải ngân vốn tại cơ
quan, đơn vị, địa phương mình trong năm 2022.
5. Về công tác quy hoạch
Thực hiện quy định của Luật Quy hoạch, Chính phủ đã
nỗ lực, tập trung cao trong chỉ đạo, điều hành thực hiện chính sách, pháp luật
về công tác quy hoạch. Tuy nhiên, tiến độ lập quy hoạch của các bộ, ngành, địa
phương vẫn còn chậm so với yêu cầu do quá trình tổ chức thực hiện còn nhiều khó
khăn, vướng mắc, bất cập dù đã được tháo gỡ bằng Nghị quyết số
751/2019/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nhưng Luật Quy hoạch qua giám
sát tối cao của Quốc hội cho thấy còn nhiều chồng chéo, bất cập, chưa rõ ràng,
còn cách hiểu khác nhau (như: nội hàm quy hoạch tổng thể quốc gia; khái niệm
về tích hợp quy hoạch; thứ tự lập quy hoạch, kinh phí lập quy hoạch, thông tin,
dữ liệu phục vụ quy hoạch...).
Chính phủ cơ bản thống nhất về các nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu16 trong dự thảo Nghị quyết của Quốc
hội về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp
luật về công tác quy hoạch và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất
là: thực hiện điều chỉnh quy hoạch trong trường hợp có mâu thuẫn theo hướng giảm
bớt một số thủ tục; sử dụng nguồn vốn chi thường xuyên để lập, thẩm định, phê
duyệt, công bố quy hoạch mà chưa được bố trí vốn và các quy hoạch được điều chỉnh;
điều chỉnh tiến độ lập quy hoạch; áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với các
gói thầu để lập các quy hoạch mà chưa lựa chọn được nhà thầu để đẩy nhanh tiến
độ lập quy hoạch thời kỳ 2021 - 2030. Trân trọng đề nghị Quốc hội xem xét, quyết
nghị tại Kỳ họp này làm cơ sở giải quyết các khó khăn, vướng mắc.
Thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ chỉ
đạo thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết giám sát chuyên
đề của Quốc hội (sau khi được Quốc hội thông qua) và tiếp tục đôn đốc
các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch; hoàn thành quy hoạch tổng thể
quốc gia và các quy hoạch ngành, hạ tầng quan trọng trong năm 2022; phấn đấu
hoàn thành các quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và các quy hoạch ngành quốc gia
trong năm 2023. Các vị đại biểu Quốc hội cũng chia sẻ cho 10 năm vừa qua ta chỉ
làm được 31 quy hoạch, còn 104 quy hoạch nữa phải hoàn thành trong thời gian tới,
bảo đảm chất lượng.
6. Về công tác xây dựng và hoàn
thiện thể chế, cải cách hành chính
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xác định, triển khai
quyết liệt17, hiệu quả 5 trọng tâm về xây dựng, hoàn
thiện thể chế: (i) đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu; (ii)
tăng cường rà soát, tháo gỡ vướng mắc, điểm nghẽn, thúc đẩy phát triển, nhất là
trong phòng, chống dịch, phục hồi, phát triển KTXH và việc thực hiện hiệu quả
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội; (iii) siết
chặt kỷ luật, kỷ cương trong việc xây dựng, trình các dự án luật, pháp lệnh và
ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành; (iv) quan tâm đầu tư nguồn
lực; (v) nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác thể chế.
Từ tháng 4/2021 đến nay, Chính phủ đã xây dựng và
trình Quốc hội 13 Luật (trong đó, Quốc hội đã thông qua 02 Luật và tại Kỳ họp
lần này trình thông qua 05 Luật, xem xét, cho ý kiến 06 Luật); đã ban hành
124 Nghị định, 190 Nghị quyết; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 37 Quyết định
quy phạm pháp luật, 2.409 Quyết định cá biệt để thực hiện Luật, Nghị quyết của
Quốc hội. Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế thời gian qua có nhiều đổi mới,
tập trung tháo gỡ, xử lý những vướng mắc, điểm nghẽn18,
góp phần quan trọng vào thành công trong phòng, chống dịch và phục hồi, phát
triển KTXH. Có được kết quả tích cực, nổi bật nêu trên là nhờ có sự đồng hành,
phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả giữa Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
và Chính phủ.
Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính được
thúc đẩy mạnh mẽ; cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh
doanh được triển khai hiệu quả19; cơ chế một cửa,
một cửa liên thông ngày càng chuyên nghiệp, công khai, minh bạch; tổ chức, bộ
máy đang được tiếp tục kiện toàn, sắp xếp theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả hơn20; tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân
quyền21; chế độ công vụ có nhiều đổi mới tích cực22. Các chỉ số về cải cách hành chính đều tăng23.
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, việc
thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh vẫn còn tình trạng phải điều chỉnh;
chậm, nợ văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh chưa được khắc phục
triệt để... Cải cách thủ tục hành chính chưa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đề ra;
tiến độ rà soát, tháo gỡ vướng mắc còn chậm; còn xảy ra nhũng nhiễu, tiêu cực
trong thực thi công vụ...
Thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp
tục chỉ đạo thực hiện hiệu quả đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế, trong
đó tập trung:
- Tiếp tục rà soát, triển khai quyết liệt, hiệu quả
các trọng tâm về xây dựng, hoàn thiện thể chế; bảo đảm chất lượng và tiến độ thực
hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm gắn với việc thực hiện Đề
án định hướng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội. Các bộ,
ngành, địa phương chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách,
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và xử lý kịp thời, hiệu quả những vấn đề mới phát
sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Triển khai hiệu quả các chương trình, chiến lược, đề
án về cải cách hành chính; rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến
hoạt động kinh doanh; xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, kinh tế
số, xã hội số; đẩy mạnh ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện
tử. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với bảo đảm nguồn lực và thanh tra, kiểm
tra, giám sát, kiểm soát quyền lực.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội và đồng bào,
cử tri cả nước!
Trên đây là Báo cáo của Chính phủ cập nhật tình
hình KTXH và báo cáo giải trình một số vấn đề đang được Quốc hội, cử tri cả nước
quan tâm. Sau đây, tôi xin lắng nghe và trả lời chất vấn của các vị đại biểu Quốc
hội./.
1 Chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tháng 5 tăng 2,86%, bình quân 5 tháng tăng 2,25% so với cùng kỳ (cao hơn
mức tăng 1,29% của năm 2021, nhưng thấp hơn mức tăng giai đoạn 2017 - 2020).
2 Chỉ số sản xuất
toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 5/2022 ước tính tăng 4% so với tháng trước
và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng tháng 5 tăng 4,2% so với tháng trước và tăng 22,6% so với cùng kỳ
năm trước. Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 5 đạt 172,9 nghìn lượt người, gấp
12,8 lần so với cùng kỳ; 5 tháng đạt 365,3 nghìn lượt người, gấp 4,5 lần cùng kỳ.
3 Theo đánh giá của
Nikkei, Chỉ số phục hồi COVID-19 của Việt Nam tăng 48 bậc so với trước và vươn
lên vị trí 14 trong bảng xếp hạng, ngang với Hà Lan; Về triển vọng phát triển
kinh tế, AMRO+3 đánh giá nền kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ tăng trưởng ở mức 6,3%
trong năm 2022 và 6,5% vào năm 2023; Theo Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới,
chỉ số năng lực phát triển cửa ngành du lịch Việt Nam năm 2021 xếp thứ 52, tăng
8 bậc so với năm 2019, nằm trong số 3 quốc gia tăng cao nhất trên thế giới;
S&P Global Ratings nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam
lên mức BB+, triển vọng “Ổn định”; Theo Viện Quản trị Chandler (Singapore), Chỉ
số chính phủ tốt năm 2022 của Việt Nam tăng 4 bậc, trong đó, chỉ số về thu hút
đầu tư tăng 18 bậc, lên vị trí thứ 39, chỉ số bình đẳng thu nhập tăng 33 bậc...
4 Gói hỗ trợ theo
các Nghị quyết và Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đạt 81.256 tỷ đồng
cho 728.466 lượt người sử dụng lao động và trên 49,65 triệu lượt người lao động
và các đối tượng khác (Theo các Nghị quyết số 68, 126, 116 của Chính phủ; các
Quyết định số 23, 28 của Thủ tướng Chính phủ).
5 Gồm (i) Nghị định
số 15/2022/NĐ-CP quy định chính sách miễn, giảm thuế; (ii) Nghị định số
28/2022/NĐ-CP quy định chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện CTMTQG phát triển
KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; (iii) Nghị định số
31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ NSNN đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp
tác xã, hộ kinh doanh; (iv) Nghị định số 32/2022/NĐ-CP về gia hạn thời hạn nộp
thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước; (v) Nghị
định số 34/2022/NĐ-CP gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2022; (vi) Nghị
định số 36/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay tại Ngân hàng
Chính sách xã hội.
6 Gồm: (i) Quyết định
số 08/2022/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà
cho người lao động; đồng thời chỉ đạo Bộ LĐTBXH kiểm tra, đôn đốc, phối hợp chặt
chẽ với các địa phương, doanh nghiệp để triển khai kịp thời; (ii) Quyết định số
09/2022/QĐ-TTg về tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn để
mua máy tính, thiết bị học tập trực tuyến; (iii) Quyết định số 11/2022/QĐ-TTg về
tín dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi
đại dịch COVID-19.
7 Chưa bao gồm: 14
nghìn tỷ đồng cho lĩnh vực y tế; 11.834 tỷ đồng dự kiến cho 04 dự án đường cao
tốc, quốc lộ; 965 tỷ đồng các bộ, cơ quan đề xuất không bố trí vốn từ Chương
trình chưa đủ điều kiện thông báo vốn.
8 Văn bản số
450/TTg-KTTH ngày 20/5/2022.
9 Báo cáo số
200/BC-CP ngày 22/5/2022.
10 Tờ trình số
146/TTr-CP ngày 22/4/2022 của Chính phủ về việc bổ sung kế hoạch đầu tư vốn
ngân sách trung ương trong nước năm 2022 cho các bộ, cơ quan trung ương và địa
phương.
11 Đã giải ngân:
3.755 tỷ đồng để cho vay hỗ trợ việc làm (kế hoạch năm 2022 là 7.000 tỷ đồng);
615 tỷ đồng cho vay mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân (kế hoạch năm
2022 là 6.800 tỷ đồng); 403 tỷ đồng cho vay học sinh sinh viên để mua máy tính,
thiết bị học tập (kế hoạch năm 2022 là 1.500 tỷ đồng); 96 tỷ đồng cho vay cơ sở
giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập (kế hoạch năm 2022 là 700 tỷ đồng).
12 Như việc hoàn
tất thủ tục để có thể khởi công các dự án đầu tư công thuộc Chương trình cần thời
gian khoảng 5 đến 6 tháng và dự kiến đến cuối năm 2022 mới bắt đầu thực hiện và
giải ngân.
13 Gồm 1 Nghị định
và 18 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
14 Các Quyết định
số 652/QĐ-TTg và số 653/QĐ-TTg ngày 28/5/2022.
15 Gồm: (i) Chương
trình nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện tiêu chí an ninh trật tự trong xây
dựng nông thôn mới; (ii) Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới,
hướng tới nông thôn mới thông minh; (iii) Chương trình tăng cường bảo vệ môi
trường, an toàn thực phẩm và cấp nước sạch nông thôn; (iv) Chương trình phát
triển du lịch nông thôn; (v) Chương trình mỗi xã một sản phẩm; (vi) Chương
trình KHCN phục vụ xây dựng nông thôn mới.
16 Gồm: (1) Cho
phép lập đồng thời các quy hoạch; (2) Cho phép các quy hoạch nêu tại điểm c khoản
1 Điều 59 của Luật Quy hoạch đã được quyết định hoặc phê duyệt trước ngày
01/01/2019 được tiếp tục thực hiện, kéo dài thời kỳ và điều chỉnh nội dung theo
quy định của pháp luật có liên quan trước ngày Luật Quy hoạch có hiệu lực; (3)
Cho phép áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với các gói thầu để lập các quy hoạch
cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh mà chưa lựa chọn được nhà thầu;
(4) Cho phép điều chỉnh tiến độ lập quy hoạch; (5) Cho phép sử dụng nguồn vốn
chi thường xuyên để lập, thẩm định, phê duyệt, công bố quy hoạch đô thị, quy hoạch
nông thôn, quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành mà chưa được bố trí vốn
và các quy hoạch được điều chỉnh; được phép huy động và sử dụng các nguồn vốn
xã hội hóa; (6) Việc điều chỉnh quy hoạch trong trường hợp có mâu thuẫn theo hướng
giảm bớt một số thủ tục; (7) Giao Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục
ban hành Kế hoạch thực hiện quy hoạch được quyết định hoặc phê duyệt; (8) Giao
Chính phủ nghiên cứu các quy định về trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan lập,
thẩm định, phê duyệt quy hoạch đảm bảo độc lập giữa các cơ quan, đề cao trách
nhiệm từng cấp; (9) Giao Chính phủ đánh giá tác động việc bãi bỏ các quy hoạch
về đầu tư phát triển hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm cụ thể quy định tại điểm d khoản
1 Điều 59 Luật Quy hoạch; nghiên cứu rà soát các quy hoạch này để bảo đảm yêu cầu
của Luật Quy hoạch, yêu cầu quản lý nhà nước và phù hợp với cam kết trong các điều
ước quốc tế.
17 Đã tổ chức 06
phiên họp, ban hành 06 Nghị quyết chuyên đề về xây dựng pháp luật; tổ chức 02 hội
nghị toàn quốc về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền; ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực
công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính.
18 Như: Quốc hội
xem xét, thông qua dự án 01 Luật sửa đổi, bổ sung một số quy định của 09 Luật;
Quốc hội ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 với những quyết
sách chưa có tiền lệ.
19 Tính riêng năm
2021, tổng số quy định kinh doanh được cắt giảm, đơn giản hóa là 1.101 quy định;
đến Quý I/2022 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản
hóa 924 quy định kinh doanh, Cổng Dịch vụ công quốc gia đến nay đã cung cấp
3.699 TTHC, hơn 116,7 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái, hơn 3,5 triệu hồ sơ trực
tuyến thực hiện qua Cổng, trong đó cung cấp nhiều dịch vụ thiết yếu cho người
dân, doanh nghiệp.
20 Đến nay, đã có
43 địa phương đã hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh; 54 địa phương đã hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn
phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
21 Chính phủ đã tổ
chức Hội nghị toàn quốc về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; ban hành Nghị quyết số
04/NQ-CP ngày 10/01/2022 giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành mới 30 Luật, 23 Nghị định và các văn bản pháp luật khác để đẩy
mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước. Đến nay, đã trình Quốc hội
thông qua 05 Luật, 06 Nghị quyết; trình Quốc hội cho ý kiến 03 Luật; đã ban
hành 03 Nghị định.
22 Phân cấp tổ chức
thi nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức; bỏ quy định
bắt buộc chứng chỉ ngoại ngữ, chứng chỉ tin học...
23 Chỉ số cải
cách hành chính với giá trị trung bình năm 2021 của các bộ tăng 0,44% so với
năm 2019; giá trị trung bình của các tỉnh đạt cao nhất từ trước đến nay
(86,37%). Chỉ số đánh giá chi phí tuân thủ thủ tục hành chính năm 2021 cho thấy
xu hướng cải thiện tốt hơn (tăng 1,8 điểm so với năm 2020) ở 09 nhóm lĩnh vực
trọng tâm.