Báo cáo 108/BC-TCTK về tình hình kinh tế - xã hội tháng mười và mười tháng năm 2012 do Tổng cục Thống kê ban hành

Số hiệu 108/BC-TCTK
Ngày ban hành 26/10/2012
Ngày có hiệu lực 26/10/2012
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Tổng cục Thống kê
Người ký Đỗ Thức
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 108/BC-TCTK

Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2012

 

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

THÁNG MƯỜI VÀ MƯỜI THÁNG NĂM 2012

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a. Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào thu hoạch lúa mùa tại các địa phương phía Bắc; thu hoạch lúa hè thu, thu đông trên cả nước và gieo cấy lúa mùa tại các địa phương phía Nam. Tính đến trung tuần tháng Mười, các địa phương phía Bắc đã thu hoạch được 699,1 nghìn ha lúa mùa, chiếm 59% diện tích gieo cấy và bằng 160,9% cùng kỳ năm 2011, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng thu hoạch được 320,4 nghìn ha, chiếm 55,9% diện tích gieo cấy và bằng 170,3%. Do thời tiết thuận lợi, lúa xuống giống đúng lịch thời vụ nên tiến độ thu hoạch lúa mùa tại các địa phương nhanh hơn cùng kỳ năm trước. Theo đánh giá sơ bộ, năng suất lúa mùa các tỉnh phía Bắc năm nay tăng nhẹ từ 0,2 đến 0,4 tạ/ha so với vụ mùa năm 2011.

Đến ngày 15/10, các địa phương phía Nam gieo cấy được 720,6 nghìn ha lúa mùa, tăng 44,8% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do giá lúa tăng cao đã khuyến khích nông dân mở rộng diện tích gieo cấy.

Cùng với việc gieo cấy và thu hoạch lúa mùa, đến giữa tháng Mười, cả nước đã thu hoạch được 2212,6 nghìn ha lúa hè thu và thu đông, chiếm 83% diện tích gieo trồng và bằng 103,1% cùng kỳ năm trước. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1887 nghìn ha lúa hè thu và thu đông, trong đó lúa hè thu đã thu hoạch xong với 1655 nghìn ha, năng suất đạt 52,8 tạ/ha, tăng 0,3tạ/ha, sản lượng lúa hè thu toàn vùng đạt gần 9 triệu tấn, tăng 2,5%;

Tiến độ gieo trồng một số cây vụ đông năm nay nhìn chung tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Tính đến trung tuần tháng Mười, cả nước gieo trồng được 39,4 nghìn ha đậu tương, bằng 153,3% cùng kỳ năm trước; 20,7 nghìn ha khoai lang, bằng 132,7%; 5 nghìn ha lạc, bằng 108,7%; 80,5 nghìn ha rau đậu, bằng 134,8%.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm gặp nhiều khó khăn do giá thịt hơi vẫn ở mức thấp trong khi giá nguyên liệu đầu vào ở mức cao. Tình trạng nhập lậu gia cầm vẫn diễn ra tại một số nơi là một trong những nguyên nhân gây lây lan dịch bệnh  và ảnh hưởng đến chăn nuôi trong nước. Ước tính  đàn lợn trong kỳ giảm khoảng 2-3% so với cùng kỳ năm trước, đàn gia cầm giảm trên 2%. Tính đến ngày 21/10/2012, dịch bệnh chưa qua 21 ngày còn ở các tỉnh: Dịch cúm gia cầm ở Quảng Ngãi; dịch tai xanh trên lợn ở Đắk Lắk, Quảng Nam, Phú Yên.

b. Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Mười ước tính đạt 18,1 nghìn ha, xấp xỉ cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 6,9 triệu cây, tăng 1,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 509 nghìn m3, tăng 9,5%; sản lượng củi khai thác đạt 2,9 triệu ste, tăng 1,8%. Tính chung mười tháng, diện tích rừng trồng tập trung cả nước đạt 141,6 nghìn ha, giảm 5,6% so với cùng kỳ năm 2011; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 171 triệu cây, tăng 0,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3927,5 nghìn m3, tăng 11,2%; sản lượng củi khai thác đạt 24,9 triệu ste, tăng 2,3%.

Thời tiết đang vào mùa mưa nên ít xảy ra hiện tượng cháy rừng. Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng khoảng 171 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 22 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 149 ha, riêng tỉnh Đắk Lắk là 135 ha. Tính chung mười tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 3183 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 2088 ha; diện tích rừng bị chặt phá là 1095 ha.

c. Thuỷ sản

Sản lượng thủy sản tháng Mười ước tính đạt 499,3 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 373,4 nghìn tấn, tăng 3,1%; tôm đạt 56,4 nghìn tấn, giảm 8,9%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Mười ước tính đạt 271,1 nghìn tấn, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó cá đạt 211,1 nghìn tấn, tăng 2%; tôm đạt 40,9 nghìn tấn, giảm 13%. Nuôi cá tra gặp nhiều khó khăn do giá bán cá tra nguyên liệu giảm, chi phí đầu vào tăng cao nên diện tích nuôi bị thu hẹp. Nuôi tôm bị ảnh hưởng của dịch bệnh có xu hướng lây lan trên diện rộng nên nhiều địa phương bị thiệt hại, đặc biệt là nuôi tôm sú. Một số địa phương có diện tích tôm nuôi bị thiệt hại nhiều là: Sóc Trăng 22,7 nghìn ha, chiếm 53% tổng diện tích thả nuôi của tỉnh, trong đó diện tích nuôi tôm sú là 21,5 nghìn ha; Trà Vinh thiệt hại 12110 ha diện tích nuôi tôm sú, chiếm 40,6% diện tích; Long An thiệt hại 2416,5 ha, chiếm 42,4%, trong đó diện tích nuôi tôm sú bị thiệt hại là 563,5 ha.

Sản lượng thủy sản khai thác tháng Mười ước tính đạt 228,2 nghìn tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2011, trong đó khai thác biển đạt 207,5 nghìn tấn, tăng 5%. Thời tiết biển hiện khá thuận lợi cho hoạt động khai thác thủy sản. Một số địa phương đang tập trung đầu tư thiết bị đánh cá hiện đại và nâng công suất cho tàu, thuyền. Mô hình tổ chức khai thác theo kiểu tổ đội kết hợp tiếp tục được nhân rộng. Những yếu tố trên góp phần bảo đảm cho hoạt động khai thác hải sản tương đối ổn định.

Tính chung mười tháng năm nay, sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 4836,3 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2011, bao gồm: Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 2599,1 nghìn tấn, tăng 5,7%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 2237,2 nghìn tấn, tăng 4,6%, trong đó khai thác biển đạt 2076,5 nghìn tấn, tăng 5,3%.

2. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười tăng 5,8% so với tháng trước và tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười tháng, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng tăng 3,9%, đóng góp 0,8% vào mức tăng chung toàn ngành; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,8%, đóng góp 2,7%; sản xuất phân phối điện, khí đốt tăng 12,8%, đóng góp 0,9%; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 8,7%, đóng góp 0,1%..

Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất mười tháng tăng cao so với cùng kỳ năm 2011 là: Đóng tàu và cấu kiện nổi tăng 141,9%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 51,6%; sản xuất phụ tùng xe có động cơ tăng 37%; sản xuất linh kiện điện tử tăng 21,2%; sản xuất pin, ắc qui tăng 15,5%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 15,2%; sản xuất đường tăng 15,2%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa tăng 12,5%; khai thác dầu thô tăng 12,1%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 11,3%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 11,3%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 10,7%. Các ngành công nghiệp có tốc độ tăng khá là: Sản xuất bia tăng 10,6%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 8,7%; sản xuất sợi tăng 8,3%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 8%.

Một số ngành công nghiệp có tốc độ tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước là: Sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 7,7%; sản xuất mỹ phẩm, xà phòng tăng 6,7%; sản xuất các cấu kiện kim loại tăng 6%; sản xuất thiết bị dây dẫn điện các loại tăng 4,1%; khai thác khí đốt tự nhiên tăng 4,1%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 3,5%; sản xuất sắt, thép, gang giảm 1,5%; sản xuất xi măng giảm 7,1%; khai thác than cứng giảm 7,3%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn và bao bì từ giấy giảm 9,6%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 9,9%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 12,3%; sản xuất xe có động cơ giảm 16,2%; sản xuất mô tô, xe máy giảm 18%; khai thác đá, cát, sỏi, đất sét và cao lanh giảm 21,2%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp mười tháng của một số địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn như sau: Bắc Ninh tăng 21% so với cùng kỳ năm trước; Bình Dương tăng 8,1%; Đồng Nai tăng 6,9%; Đà Nẵng tăng 5,6%; Hà Nội tăng 5%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 4%; Cần Thơ tăng 4%; Hải Phòng tăng 3,6%; Hải Dương giảm 1,9%; Vĩnh Phúc giảm 7,4%.

Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến chín tháng năm nay tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao là: Sản xuất mô tô, xe máy tăng 52,1%; sản xuất đường tăng 45,7%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 32,1%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 16,3%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 13,6%; sản xuất mỹ phẩm, xà phòng và chất tẩy rửa tăng 11,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất thiết bị truyền thông tăng 9%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 6,1%; sản xuất bê tông và các sản phẩm khác từ xi măng, thạch cao tăng 5,7%; sản xuất thuốc lá tăng 5,1%; sản xuất pin và ắc qui tăng 2,4%; sản xuất thiết bị dẫn điện tăng 2,2%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 1,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 1,4%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 3,5%; sản xuất sợi giảm 3,5%; sản xuất giày, dép giảm 4,8%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) giảm 5,3%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa giảm 8,6%; sản xuất các cấu kiện kim loại giảm 10,7%; sản xuất xi măng giảm 19,4%; sản xuất dây, cáp điện giảm 43,4%.

Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/10/2012 của ngành công nghiệp chế biến tăng 20,3% so với cùng thời điểm năm trước, tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 56,5%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 55,1%; sản xuất xi măng tăng 53,1%; may trang phục (trừ trang phục từ da lông thú) tăng 48,3%; sản xuất sắt, thép, gang tăng 38,8%; sản xuất pin và ắc qui tăng 36%; sản xuất bia tăng 35,2%; sản xuất thuốc lá tăng 33,4%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 32,5%; chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 23,9%; sản xuất giày, dép tăng 23,1%; sản xuất xe có động cơ tăng 22,9%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất mô tô, xe máy tăng 8,1%; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa giảm 7,1%; sản xuất các cấu kiện kim loại giảm 9,8%; sản xuất thiết bị dẫn điện giảm 10,4%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng giảm 10,5%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 13,1%; sản xuất đường giảm 54,2%; sản xuất thiết bị truyền thông giảm 67,5%.

Trong tháng Mười, số lao động làm việc tại các doanh nghiệp công nghiệp tăng 0,6% so với tháng Chín, trong đó: Ngành công nghiệp khai thác giảm 0,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,7%; công nghiệp sản xuất, phân phối điện tăng 0,1%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,1%. Lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp công nghiệp nhà nước tăng 0,2% so với tháng trước; khu vực doanh nghiệp công nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,7%.

Biến động lao động tháng Mười so với tháng Chín trong ngành công nghiệp của một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn như sau: Đồng Nai tăng 1,5%; Bình Dương và Vĩnh Phú cùng tăng 0,9%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,8%; Cần Thơ tăng 0,6%; Hải Dương và Bắc Ninh cùng tăng 0,2%; Hà Nội, Đà Nẵng tăng 0,1%; Bà Rịa Vũng Tàu giảm 1,8%.

3. Đầu tư

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười ước tính đạt 22,3 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 5,2 nghìn tỷ đồng; vốn địa phương 17,1 nghìn tỷ đồng. Tính chung mười tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 164,9 nghìn tỷ đồng, bằng 79,4% kế hoạch năm và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2011, gồm có: 

[...]