Trong quá trình điều tra khảo sát xâm nhập mặn, vị trí và chế độ quan trắc mặn được quy định ra sao?

Trong quá trình điều tra khảo sát xâm nhập mặn, vị trí và chế độ quan trắc mặn được quy định ra sao và liệu có những tiêu chuẩn cụ thể về việc lựa chọn vị trí quan trắc không?

Nội dung chính

    Trong quá trình điều tra khảo sát xâm nhập mặn, vị trí và chế độ quan trắc mặn được quy định ra sao?

    Vị trí và chế độ quan trắc mặn trong điều tra khảo sát xâm nhập mặn được quy định tại Điều 7 Thông tư 39/2016/TT-BTNMT quy định kỹ thuật về quan trắc và điều tra khảo sát xâm nhập mặn do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành như sau:

    1. Vị trí đo mặn
    a) Vị trí đo mặn được xác định tại giữa dòng chảy hoặc tại thủy trực đại biểu (nếu điểm đo ở trạm thủy văn có đo lưu lượng).
    b) Từ vị trí đo đã lựa chọn ở trên, thực hiện đo mặn ở 3 tầng:
    - Tầng mặt (cách mặt nước 0,2h), trong đó h là độ sâu thủy trực, được tính bằng cm;
    - Tầng giữa (cách mặt nước 0,5h);
    - Tầng đáy (cách mặt nước 0,8h);
    - Trong quá trình đo mặn, đo lần lượt từ tầng mặt tới tầng đáy;
    - Trường hợp độ sâu thủy trực h ≤ 300 cm thì chỉ cần đo mặn ở tầng giữa (0,5h).
    2. Chế độ quan trắc
    a) Thời gian đo
    Thời gian đo thường được tiến hành trong 6 tháng mùa cạn. Mùa cạn của các khu vực thường khác nhau và có xu hướng chậm dần từ Bắc vào Nam (căn cứ Quyết định số 46/QĐ-TTg ngày 15 tháng 8 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định về dự báo, cảnh báo và truyền tin thiên tai). Do đó, thời gian đo ở các khu vực cũng khác nhau, cụ thể như sau:
    a1) Đối với sông ở khu vực miền Bắc, bắt đầu từ tháng 12 năm trước và kết thúc vào tháng 5 năm sau;
    a2) Đối với sông ở khu vực miền Trung:
    - Từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi bắt đầu từ tháng 3 và kết thúc vào tháng 8 của năm;
    - Từ Bình Định đến Bình Thuận bắt đầu từ tháng 2 và kết thúc vào tháng 7 của năm.
    a3) Đối với sông ở khu vực miền Nam, bắt đầu từ tháng 1 và kết thúc vào tháng 6 của năm;
    a4) Đối với sông ở những khu vực có diễn biến xâm nhập mặn bất thường có thể tiến hành điều tra khảo sát ngoài khoảng thời gian nêu trên.
    b) Trong tháng, tiến hành đo mặn vào các kỳ triều đặc trưng cho các kỳ nước cường, nước kém. Thời gian đo mặn cụ thể trong tháng được xây dựng trên cơ sở tham khảo bảng thủy triều được xuất bản hàng năm.
    c) Chế độ đo
    Chế độ đo mặn được thực hiện sau:
    c1) Chế độ 1: Đo từng giờ (0, 1,2, …….. 23 giờ). Khi mực nước thấp nhất (được quy về giờ tròn) thì bắt đầu đo và đo liên tục trong 24 giờ thì kết thúc.
    c2) Chế độ 2: Đo vào các giờ lẻ (1, 3, .... 23 giờ), khi mực nước thấp nhất (được quy về giờ tròn) thì bắt đầu đo và đo liên tục trong 24 giờ thì kết thúc.
    c3) Chế độ 3: Đo theo chân, đỉnh mặn được thực hiện như sau:
    - Khi xuất hiện mực nước thấp nhất (được quy về giờ tròn) thì bắt đầu đo, đo 3 lần liên tục, mỗi lần cách nhau 2 giờ (ví dụ: mực nước thấp nhất xuất hiện lúc 7 giờ thì đo vào các giờ 7, 9, 11);
    - Khi xuất hiện mực nước cao nhất thì tiếp tục đo, đo 4 lần liên tục, mỗi lần cách nhau 1 giờ (ví dụ: mực nước cao nhất xuất hiện vào lúc 1 giờ thì đo vào các giờ 1, 2, 3, 4);
    - Sau đó tiếp tục đo 3 lần liên tục, mỗi lần cách nhau 2 giờ khi xuất hiện mực nước thấp nhất tiếp theo.
    c4) Chế độ 4: Đo 3 ngày liên tục (72 giờ) được thực hiện như chế độ đo từng giờ hoặc giờ lẻ (thời gian bắt đầu đo vào 0 giờ hoặc 1 giờ).

    Trên đây là nội dung tư vấn về vị trí và chế độ quan trắc mặn trong điều tra khảo sát xâm nhập mặn.

    13