Mẫu bài văn phân tích một tác phẩm thơ trào phúng lớp 8? Học sinh lớp 8 không được lên lớp khi nào?
Nội dung chính
Mẫu bài văn phân tích một tác phẩm thơ trào phúng lớp 8?
Thơ trào phúng là một thể loại thơ sử dụng tiếng cười để phê phán, đả kích những điều xấu xa, lạc hậu trong xã hội. Ở môn Ngữ văn lớp 8 học sinh sẽ được học phân tích một tác phẩm thơ trào phúng.
Dưới đây là một số mẫu bài văn phân tích một tác phẩm thơ trào phúng:
Mẫu 1: Phân tích bài Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu - Trần Tế Xương
Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trào phúng nổi bật của văn học Việt Nam cuối thế kỷ 19. Với phong cách thơ sắc sảo, châm biếm, ông đã phản ánh một cách sâu sắc những suy đồi của xã hội phong kiến và nỗi đau mất nước dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Bài thơ "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" là một tác phẩm điển hình cho tài năng trào phúng của Tú Xương. Trong bài thơ, ông mượn hình ảnh lễ xướng danh của kỳ thi Hương để châm biếm, chỉ trích sự suy đồi trong chế độ thi cử cũng như sự can thiệp của thực dân Pháp vào nền giáo dục Việt Nam thời ấy. Với giọng thơ mỉa mai, chua xót, bài thơ không chỉ thể hiện nỗi thất vọng của tác giả mà còn là lời phê phán sắc bén về một xã hội đang dần lụi tàn. Bài thơ vẽ lên một cảnh tượng lố bịch của buổi lễ xướng danh, vốn là một nghi thức trang trọng để vinh danh những người đỗ đạt, nhưng dưới chế độ thực dân, nghi lễ này lại trở nên trống rỗng, xa lạ và đầy lố bịch. Hai câu thơ đầu: Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra. Tú Xương đã phơi bày cảnh tượng xa hoa nhưng đầy giả tạo khi các quan sứ Pháp và vợ của họ (mụ đầm) đến dự lễ. Hình ảnh “lọng cắm rợp trời” cùng “váy lê quét đất” mô tả sự xuất hiện phô trương, nhưng lạc lõng, xa lạ với văn hóa truyền thống. Sự hiện diện của quan sứ và mụ đầm tượng trưng cho quyền lực thực dân, làm cho lễ xướng danh mất đi ý nghĩa thiêng liêng vốn có, trở thành nơi phô bày uy quyền của ngoại bang. Qua hình ảnh này, Tú Xương không chỉ phê phán sự lố bịch của quan sứ mà còn lên án sự bất lực của chế độ phong kiến khi để thực dân xâm nhập và kiểm soát lễ nghi truyền thống. Hai câu thơ sau tiếp tục thể hiện rõ nỗi thất vọng của tác giả đối với nền giáo dục và xã hội đương thời: Nhân tài đất Bắc nào ai đó, Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà. Tác giả đưa ra một câu hỏi đầy chua chát về “nhân tài đất Bắc,” với hàm ý rằng những người đỗ đạt giờ đây không còn là “nhân tài” thực sự. Thay vào đó, kỳ thi đã trở thành công cụ để kiếm danh lợi cá nhân, khi triều đình phong kiến không còn quan tâm đến việc chọn người tài để giúp dân giúp nước. Từ “ngoảnh cổ” thể hiện thái độ bất lực, thở dài trước cảnh nước mất, nhà tan. Đây là tiếng lòng đau xót của Tú Xương khi thấy nền giáo dục Nho học mà ông trân trọng nay chỉ còn là hình thức trống rỗng, mất đi giá trị cao quý vốn có. Tác phẩm "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" nổi bật với nghệ thuật trào phúng sắc sảo. Tú Xương sử dụng lối châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay qua hình ảnh đối lập: lọng che nghiêm trang – váy đầm lố bịch; xướng danh trang trọng – cảnh tượng kệch cỡm. Các hình ảnh này thể hiện rõ sự đối lập giữa văn hóa truyền thống và ảnh hưởng Tây phương lố lăng, làm tăng tính trào phúng cho bài thơ. Đặc biệt, các từ ngữ như “lọng cắm rợp trời,” “váy lê quét đất” được sử dụng với ý mỉa mai, diễn tả sự lố bịch của những nghi thức trống rỗng và xa lạ. Giọng thơ của Tú Xương ở đây không chỉ mang tính hài hước mà còn ẩn chứa sự khinh bỉ và phê phán sâu sắc, thể hiện sự bất bình của tác giả trước thực trạng xã hội. Bài thơ "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" là một tác phẩm trào phúng xuất sắc của Tú Xương, mang lại cái nhìn sâu sắc về tình cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 19. Qua lời thơ châm biếm, tác phẩm phê phán sự suy đồi của nền giáo dục và xã hội phong kiến khi để cho quyền lực thực dân chi phối. Bài thơ không chỉ là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của nhà Nho yêu nước mà còn là một lời cảnh tỉnh cho thế hệ sau về ý thức bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc, giữ gìn bản sắc truyền thống. Tác phẩm đã góp phần làm nên phong cách trào phúng đặc sắc của Tú Xương và trở thành một tiếng thơ có giá trị vượt thời gian trong nền văn học Việt Nam. |
Mẫu 2: Phân tích bài thơ Lai Tân - Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất và cũng là một nhà thơ tài năng của dân tộc Việt Nam. Trong thời gian bị giam giữ ở Trung Quốc (1942-1943), Bác đã sáng tác tập thơ "Nhật ký trong tù", trong đó có bài thơ "Lai Tân". Bài thơ không chỉ phản ánh sự suy đồi của bộ máy cai trị thời bấy giờ mà còn bộc lộ sự quan sát sắc sảo và tài năng trào phúng độc đáo của Hồ Chí Minh. Qua bài thơ này, Bác đã thể hiện một thái độ phê phán nhẹ nhàng nhưng thâm thúy đối với bộ máy cai trị Trung Quốc và bày tỏ nỗi trăn trở đối với số phận của nhân dân. Bài thơ "Lai Tân" miêu tả một cảnh tượng ở huyện Lai Tân, nơi Hồ Chí Minh bị giam giữ. Bộ máy cai trị tại đây được thể hiện qua ba hình ảnh đại diện: người lính canh, viên thư lại và quan huyện. Bằng bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả đã phơi bày toàn cảnh một bộ máy chính quyền suy đồi, vô trách nhiệm: Lai Tân yết hầu canh dạ đan, Chung biên thục lại tự tư lân. Trưởng quan tham thụ tài vô hạn, Dân gian tĩnh bất an. Câu đầu tiên mở ra hình ảnh người lính canh: “yết hầu canh dạ đan” (canh gác đêm đêm). Tuy người lính có vẻ làm nhiệm vụ tuần tra nghiêm túc, nhưng thực chất là hình thức bề ngoài, chỉ làm theo nghĩa vụ mà không hề vì mục đích bảo vệ an toàn cho dân chúng. Tiếp theo, câu thơ thứ hai miêu tả cảnh viên thư lại nhàn nhã ngồi chơi cờ thay vì làm việc, “Chung biên thục lại tự tư lân” (thục lại nhàn rỗi chơi cờ bên cạnh). Từ “tự tư lân” (mải mê với trò chơi) bộc lộ rõ sự vô trách nhiệm của viên thư lại. Bác đã khéo léo vạch trần lối sống hưởng thụ, thiếu trách nhiệm của những người đại diện chính quyền. Hình ảnh “trưởng quan tham thụ tài vô hạn” (quan lớn tham nhũng nhận tiền không giới hạn) trong câu thơ thứ ba làm nổi bật sự suy đồi của người đứng đầu huyện Lai Tân. Quan huyện không màng đến công việc điều hành, mà chỉ chăm chăm nhận hối lộ, vơ vét tiền bạc của dân. Đây là một lời phê phán đanh thép về thực trạng tham nhũng của bộ máy quan chức, khi lợi ích cá nhân được đặt lên trên tất cả. Hệ quả của sự suy đồi, vô trách nhiệm này được thể hiện rõ ràng ở câu thơ cuối cùng: “Dân gian tĩnh bất an” (dân yên ắng nhưng chẳng yên). Câu thơ này vẽ nên một khung cảnh nghịch lý, tuy ngoài mặt là sự yên lặng nhưng bên trong là nỗi bất an của nhân dân. Dân chúng phải sống dưới một bộ máy quan chức không có ý thức trách nhiệm, lo lắng cho cuộc sống an toàn của họ. Đây là cách tác giả bộc lộ sự thương cảm và đồng thời là tiếng nói phê phán mạnh mẽ cho số phận của người dân trong một xã hội đầy rẫy bất công. Bài thơ "Lai Tân" được xây dựng với giọng điệu châm biếm, phê phán nhưng vẫn giữ được sự khách quan và nhẹ nhàng. Một trong những nét đặc sắc của nghệ thuật trào phúng ở đây là cách sử dụng hình ảnh và từ ngữ để khắc họa từng nhân vật đại diện cho bộ máy cai trị. Hồ Chí Minh không dùng những lời chỉ trích nặng nề, mà chỉ miêu tả sự việc một cách nhẹ nhàng, khách quan, nhưng vẫn khiến người đọc cảm nhận rõ nét sự lố bịch và vô trách nhiệm của những người có chức vụ. Hình ảnh đối lập giữa vẻ ngoài yên lặng và tình trạng bất ổn của nhân dân cũng là một điểm đặc sắc trong nghệ thuật trào phúng của bài thơ. Sự tương phản này làm nổi bật mâu thuẫn giữa bề ngoài và bản chất thật của xã hội, giữa sự thờ ơ của chính quyền và nỗi bất an của dân chúng. Nghệ thuật miêu tả súc tích, ngắn gọn mà đầy đủ ý nghĩa đã giúp bài thơ vừa nhẹ nhàng, vừa có sức mạnh tố cáo. Bài thơ "Lai Tân" không chỉ đơn thuần là một tác phẩm châm biếm bộ máy chính quyền địa phương mà còn là tiếng nói thương cảm của Hồ Chí Minh dành cho số phận người dân trong xã hội phong kiến suy đồi. Thông qua bài thơ, Bác đã vạch trần thực trạng suy đồi, tham nhũng của quan chức địa phương, thể hiện nỗi lo lắng và thương cảm với người dân. Bài thơ cũng là một lời nhắn nhủ về vai trò, trách nhiệm của người lãnh đạo, những người cần thực sự quan tâm đến lợi ích và cuộc sống của dân chúng. "Lai Tân" là một trong những tác phẩm thể hiện tài năng trào phúng của Hồ Chí Minh, với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh và đầy sức mạnh tố cáo. Tác phẩm không chỉ có giá trị về nội dung mà còn đóng góp lớn cho nghệ thuật thơ trào phúng Việt Nam. Qua bài thơ, người đọc không chỉ thấy được một hình ảnh hiện thực xã hội suy tàn mà còn cảm nhận sâu sắc tình yêu thương và lòng trắc ẩn của Bác đối với nhân dân. |
Mẫu 3: Phân tích bài thơ Thương vợ - Trần Tế Xương
Tú Xương (Trần Tế Xương) là một trong những nhà thơ trào phúng xuất sắc của văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Các sáng tác của ông không chỉ thể hiện tài năng châm biếm sắc sảo mà còn bộc lộ sự đồng cảm, yêu thương sâu sắc dành cho gia đình và quê hương. Bài thơ Thương vợ là một trong những tác phẩm xúc động và chân thành nhất của ông, thể hiện lòng biết ơn, trân trọng của một người chồng đối với sự hy sinh, vất vả của vợ. Đây là bài thơ độc đáo, vừa trữ tình, vừa trào phúng, vừa thể hiện tài năng nghệ thuật đặc sắc của Tú Xương trong việc diễn tả tình cảm gia đình một cách gần gũi, giản dị mà thấm thía. Bài thơ Thương vợ là lời tri ân của Tú Xương dành cho bà Tú, người phụ nữ đảm đang, tần tảo, âm thầm hy sinh vì chồng con. Bài thơ mở đầu với hình ảnh vất vả, lam lũ của bà Tú: Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Câu thơ miêu tả công việc quanh năm và địa điểm mom sông - nơi buôn bán bấp bênh và nguy hiểm - thể hiện rõ sự nhọc nhằn, bấp bênh mà bà Tú phải đối mặt hàng ngày. Nuôi đủ năm con với một chồng vừa là câu nói vui, vừa là lời than thở đầy chua xót của một người chồng thấy rõ sự vất vả của vợ. Bà Tú không chỉ phải lo cho năm đứa con, mà còn phải gánh vác thêm cả trách nhiệm chăm sóc ông chồng lười biếng, phụ thuộc. Hình ảnh bà Tú tiếp tục hiện lên với những câu thơ đầy mỉa mai, chua chát: Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Tú Xương sử dụng hình ảnh thân cò – một hình ảnh quen thuộc trong ca dao để chỉ người phụ nữ chịu thương chịu khó, tần tảo, mang thân mình để gánh vác gia đình. Cảnh lặn lội, eo sèo diễn tả rõ nét sự nhọc nhằn, gian truân mà bà Tú phải trải qua để lo toan cho gia đình. Từ eo sèo không chỉ diễn tả sự nhộn nhạo, chen lấn nơi sông nước mà còn ám chỉ cảnh buôn bán đầy khó khăn, cạnh tranh. Đến hai câu thực, Tú Xương thể hiện rõ sự khâm phục và cảm thông sâu sắc đối với vợ: Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công. Bà Tú chấp nhận sự vất vả, lam lũ như một phần số phận, xem công việc khó nhọc là điều tất yếu, không than phiền. Hình ảnh năm nắng mười mưa là cách nói dân gian để chỉ sự nhọc nhằn, khó khăn nhưng vẫn kiên nhẫn vượt qua. Tú Xương bày tỏ lòng biết ơn và trân trọng đối với sự hy sinh lớn lao ấy của vợ. Dù khó khăn thế nào, bà Tú cũng không quản công, vẫn kiên nhẫn chịu đựng để gánh vác gia đình. Đến hai câu kết, Tú Xương đẩy mạnh yếu tố trào phúng qua cách tự trách mình: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không. Ở đây, tác giả mỉa mai xã hội phong kiến, nơi mà phụ nữ bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, phải hy sinh vì gia đình mà không được sự giúp đỡ, tôn trọng. Tự gọi mình là người chồng hờ hững – tức là vô dụng, không chia sẻ được gánh nặng với vợ – Tú Xương bày tỏ lòng tự trách và sự xấu hổ về thân phận của mình. Cách nói có chồng hờ hững cũng như không là lời tự mỉa mai đắng cay, làm nổi bật sự vô trách nhiệm của người chồng và vai trò to lớn của người vợ trong gia đình. Nghệ thuật trào phúng này không nhằm châm biếm cá nhân bà Tú, mà chính là cách để Tú Xương lên án một xã hội đầy bất công, nơi phụ nữ phải chịu thiệt thòi, khó nhọc. Bài thơ Thương vợ không chỉ là lời tri ân đối với bà Tú, mà còn là tiếng nói phê phán xã hội phong kiến đã khiến cho người phụ nữ phải gánh chịu biết bao khổ đau, thiệt thòi. Qua hình ảnh bà Tú, tác giả ngợi ca đức tính hy sinh, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam. Bài thơ còn thể hiện sự tôn trọng, lòng biết ơn của Tú Xương đối với vợ – một tình cảm hiếm thấy trong văn chương Nho học truyền thống, nơi vai trò của người phụ nữ thường bị coi nhẹ. Thương vợ là một tác phẩm độc đáo, vừa đậm chất trào phúng, vừa chan chứa tình yêu thương. Tác phẩm không chỉ có giá trị văn học mà còn là một tiếng nói nhân đạo sâu sắc, thể hiện lòng trân trọng và sự cảm thông đối với người phụ nữ Việt Nam. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được một tấm lòng yêu thương, biết ơn của Tú Xương dành cho vợ, đồng thời hiểu thêm về sự hy sinh to lớn của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Bài thơ khẳng định tài năng nghệ thuật và tinh thần nhân đạo của Tú Xương, làm cho người đọc cảm thấy xúc động và trân trọng hơn những giá trị gia đình. |
Lưu ý: Nội dung mẫu bài văn phân tích một tác phẩm thơ trào phúng chỉ mang tính chất tham khảo!
Mẫu bài văn phân tích một tác phẩm thơ trào phúng lớp 8? Học sinh lớp 8 không được lên lớp khi nào? (Hình từ Internet)
Học sinh lớp 8 không được lên lớp khi nào?
Tại Điều 12 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT có quy định học sinh lớp 8 không được lên lớp nếu thuộc trường hợp như sau:
- Kết quả rèn luyện cả năm học (bao gồm kết quả đánh giá lại sau khi rèn luyện trong kì nghỉ hè) được đánh giá mức chưa đạt.
- Kết quả học tập cả năm học (bao gồm kết quả đánh giá lại các môn học) được đánh giá mức chưa đạt.
- Nghỉ học quá 45 buổi trong một năm học (tính theo kế hoạch giáo dục 01 buổi/ngày được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông, bao gồm nghỉ học có phép và không phép, nghỉ học liên tục hoặc không liên tục).
Các yêu cầu đánh giá học sinh lớp 8?
Căn cứ Điều 4 Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT việc đánh giá học sinh lớp 8 phải đảm bảo các yêu cầu như sau:
- Đánh giá căn cứ vào yêu cầu cần đạt được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông.
- Đánh giá bảo đảm tính chính xác, toàn diện, công bằng, trung thực và khách quan.
- Đánh giá bằng nhiều phương pháp, hình thức, kĩ thuật và công cụ khác nhau; kết hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì.
- Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong rèn luyện và học tập của học sinh; không so sánh học sinh với nhau.