Mang tài liệu và vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ có bị xử lý như thế nào theo pháp luật hiện hành?
Nội dung chính
Mang tài liệu và vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ có bị xử lý như thế nào theo pháp luật hiện hành?
Ngày 15/11/2018 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật Bảo vệ bí mật nhà nước số 29/2018/QH14 (gọi tắt là Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018).
Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 quy định về bí mật nhà nước, hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Theo quy định tại Điều 14 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 (có hiệu lực thi hành từ 01/07/2020) thì mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ được quy định cụ thể như sau:
- Việc mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ để phục vụ công tác ở trong nước phải được người đứng đầu hoặc cấp phó được ủy quyền của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý bí mật nhà nước cho phép.
- Việc mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ để phục vụ công tác ở nước ngoài phải được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, người có thẩm quyền quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, g, h, i, k và l khoản 1 Điều 11 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 hoặc cấp phó được ủy quyền cho phép và phải báo cáo Trưởng đoàn công tác.
- Trong quá trình mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ phải có biện pháp bảo quản, bảo đảm an toàn.
- Trong thời gian mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước ra khỏi nơi lưu giữ, nếu phát hiện bí mật nhà nước bị lộ, bị mất, người mang tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước phải báo cáo ngay với người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý, Trưởng đoàn công tác để có biện pháp xử lý và khắc phục hậu quả.