13:47 - 25/09/2024

Hậu quả pháp lý khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng

Vào 1/4/2013 mình có ký HĐ làm việc với UBND TP X, sau quá trình thử việc 02 tháng hưởng 85% lương thì 1/6/2013 mình được ký hợp đồng chính thức. Theo HĐ chính thức thì thời hạn HĐ là 01 năm, với hệ số lương là 2,34 + 0,2 (hệ số khu vực) là 2,6tr/tháng. Trong thời gian này, tôi được hưởng các chế độ, trợ cấp và đóng bảo hiểm.

Tuy nhiên đến 1/6/2014 khi HĐ cũ hết hiệu lực mình không thấy có HĐ ký kết mới, nhưng mình vẫn được trả lương đầy đủ theo HĐ đã hết hạn kia thêm 1 năm nữa.
Đến hôm nay, ngày 15/6/2015 thì bên UBND TP X đã đơn phương chấm dứt HĐ với mình. Và sẽ kết thức HĐ vào 1/7/2015 (báo trước cho mình là 15 ngày).
Mình muốn hỏi là: Liên quan đến Luật Lao Động, thì khi bên Sử dụng lao động đơn phương chấm dứt HĐ thì khi kết thức HĐ LĐ với bên đó thì mình được hưởng những khoản gì ? khoản tiền trợ cấp thất nghiệp mình được hưởng là bao nhiêu?

Nội dung chính

    Theo thông tin N.V.T cung cấp cho chúng tôi thì trường hợp của N.V.T đã ký kết hợp đồng lao động xác định thời hạn là 12 tháng. Sau khi hết hạn hợp đồng (ngày 1/06/2014), người sử dụng lao động không tiếp tục ký kết hợp đồng và N.V.T vẫn làm việc cho đến nay. 

    Tại Điều 22 Bộ luật Lao động 2012 quy định loại hợp đồng lao động như sau:

    “1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:

    a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

    Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.

    b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn;

    Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.

    c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.

    2. Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng. Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn.”

     Chính vì vậy, việc N.V.T vẫn tiếp tục làm việc thêm 1 năm nhưng người sử dụng lao động không ký kết hợp đồng mới thì hợp đồng xác định thời hạn như trên sẽ mặc nhiên trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn. 

    Mặt khác, tại Khoản 2 Điều 38 quy định: “Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:

    a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

    b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;

    c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.”

    Vì thế, trường hợp HĐLĐ không xác định thời hạn của N.V.T khi đơn phương chấm dứt, người sử dụng lao động phải báo trước ít nhất 45 ngày và thông báo lý do. Việc cơ quan chấm dứt HĐ và báo trước 15 ngày là không tuân thủ đúng quy định pháp luật. 

    Một điểm cần lưu ý rằng: N.V.T có thể đối chiếu trường hợp của mình với quy định về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của người sử dụng lao động ( Điều 38 Bộ luật Lao động 2012) để có cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nếu như N.V.T không đồng ý với quyết định chấm dứt HĐ của cơ quan nơi N.V.T công tác.

    Như vậy, khi người sử dụng lao động đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, người sử dụng lao động phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Lao động 2012 như sau:

    "1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

    2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này. 

    3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

    4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. 

    5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước."

    Vì N.V.T giao kết hợp đồng lao động 1 năm trở lên và không cung cấp thông tin gì khác nên chúng tôi xác định N.V.T đã tham gia BHTN theo quy định về đối tượng tham gia BHTN theo quy định tại Điều 43 Luật Việc làm hiện hành. 

    Mặc khác, khi chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương theo điều 48 BLLĐ 2012. Tuy nhiên, thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc (khoản 2 Điều 48 BLLĐ 2012). Căn cứ quy định trên thì N.V.T không thuộc đối tượng được trợ cấp thôi việc. Nếu N.V.T chưa tìm được công việc mới, thì N.V.T có thể tiến hành làm hồ sơ để đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp. 

    Để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, N.V.T phải thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 49 Luật Việc làm hiện hành:

    "1. Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp sau đây:

    a) Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật;

    b) Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;

    2. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật này; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật này;

    3. Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này;

    4. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:

    a) Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;

    b) Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên;

    c) Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    d) Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù;

    đ) Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng;

    e) Chết."

     

    Mức hưởng trợ cấp mất việc làm như sau:(Điều 50 Luật Việc làm hiện hành)

    "1. Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức b́nh quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp nhưng tối đa không quá 05 lần mức lương cơ sở đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định hoặc không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật lao động đối với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

    2. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.

    3. Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này."

    1