Bác sĩ có được từ chối chẩn đoán giới tính thai nhi không? Chẩn đoán giới tính thai nhi bị phạt như thế nào?
Nội dung chính
1. Bác sĩ có được từ chối chẩn đoán giới tính thai nhi không?
Tại Điều 7 Pháp lệnh dân số 2003 quy định các hành vi bị nghiêm cấm, theo đó:
Nghiêm cấm các hành vi sau đây:
1. Cản trở, cưỡng bức việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình;
2. Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức;
3. Sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, cung cấp phương tiện tránh thai giả, không bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, quá hạn sử dụng, chưa được phép lưu hành;
4. Di cư và cư trú trái pháp luật;
5. Tuyên truyền, phổ biến hoặc đưa ra những thông tin có nội dung trái với chính sách dân số, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có ảnh hưởng xấu đến công tác dân số và đời sống xã hội;
6. Nhân bản vô tính người.
Bên cạnh đó, Điều 10 Nghị định 104/2003/NĐ-CP quy định nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, bao gồm:
1. Tuyên truyền, phổ biến phương pháp tạo giới tính thai nhi dưới các hình thức: tổ chức nói chuyện, viết, dịch, nhân bản các loại sách, báo, tài liệu, tranh, ảnh, ghi hình, ghi âm; tàng trữ, lưu truyền tài liệu, phương tiện và các hình thức tuyên truyền, phổ biến khác về phương pháp tạo giới tính thai nhi.
2. Chẩn đoán để lựa chọn giới tính thai nhi bằng các biện pháp: xác định qua triệu chứng, bắt mạch; xét nghiệm máu, gen, nước ối, tế bào; siêu âm, ....
3. Loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính bằng các biện pháp phá thai, cung cấp, sử dụng các loại hóa chất, thuốc và các biện pháp khác.
Theo đó, hành vi áp dụng biện pháp siêu âm để chẩn đoán giới tính thai nhi bị coi là vi phạm pháp luật. Việc bác sĩ từ chối thực hiện yêu cầu của bạn là hành vi phù hợp với quy định.
Bác sĩ có được từ chối chẩn đoán giới tính thai nhi không? Chẩn đoán giới tính thai nhi bị phạt như thế nào? (Hình từ Internet)
2. Chẩn đoán giới tính thai nhi bị phạt như thế nào?
Theo Điều 98 Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định xử lý vi phạm các quy định về chẩn đoán, xác định giới tính thai nhi, như sau:
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi bói toán để xác định giới tính thai nhi.
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi bắt mạch hoặc siêu âm hoặc xét nghiệm cho người đang mang thai để chẩn đoán và tiết lộ, cung cấp thông tin về giới tính thai nhi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Hình thức xử phạt bổ sung:
Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành vi quy định tại khoản 2 Điều này.
Ngoài ra, tại Khoản 5 Điều 4 Nghị định 117/2020/NĐ-CP có quy định như sau:
5. Mức phạt tiền được quy định tại Chương II Nghị định này là mức phạt tiền đối với cá nhân. Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Theo đó, bác sĩ khi thực hiện việc chẩn đoán giới tính thai nhi thì bị phạt tiền 5.000.000 đến 10.000.000 đồng, với tổ chức là 10.000.000 đến 20.000.000 đồng.
Ngoài ra, còn bị áp dụng hình thức xử lý bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 01 đến 03 tháng.
3. Xác định khuyết tật bẩm sinh của thai nhi về giới tính theo những tiêu chuẩn nào?
Căn cứ Điều 5 Nghị định 88/2008/NĐ-CP quy định tiêu chuẩn y tế xác định khuyết tật bẩm sinh về giới tính, theo đó:
1. Nam lưỡng giới giả nữ:
a) Bộ phận sinh dục có dương vật nhỏ, có thể sờ thấy tinh hoàn hoặc không, siêu âm hoặc nội soi thấy tinh hoàn, không có tử cung và buồng trứng;
b) Nhiễm sắc thể giới tính là XY hoặc gen biệt hóa tinh hoàn dương tính hoặc kết hợp cả hai trường hợp trên.
2. Nữ lưỡng giới giả nam:
a) Bộ phận sinh dục có âm vật phát triển như dương vật nhưng không sờ thấy tinh hoàn, siêu âm hoặc nội soi thấy có tử cung, buồng trứng, không thấy tinh hoàn;
b) Nhiễm sắc thể giới tính là XX.
3. Lưỡng giới thật:
a) Bộ phận sinh dục không xác định được là nam hay nữ. Tuyến sinh dục có cả tổ chức tinh hoàn, buồng trứng;
b) Nhiễm sắc thể giới tính có thể là một trong các dạng XX/XY; XXX/XY; XX/XXXY hoặc các dạng nhiễm sắc thể khác được xác định là lưỡng giới thật.
Như vậy, việc xác định khuyết tật bẩm sinh về giới tính theo những tiêu chuẩn như trên theo quy định pháp luật.