Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 hướng dẫn Pháp lệnh thi hành án dân sự do Bộ Tư pháp- Toà án nhân dân tối cao- Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Số hiệu | 06-89/TTLN |
Ngày ban hành | 07/12/1989 |
Ngày có hiệu lực | 01/01/1990 |
Loại văn bản | Thông tư liên tịch |
Cơ quan ban hành | Bộ Tư pháp,Viện kiểm sát nhân dân tối cao |
Người ký | Lê Thanh Đạo,Trần Đông,Trịnh Hồng Dương |
Lĩnh vực | Thủ tục Tố tụng |
BỘ
TƯ PHÁP-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 06-89/TTLN |
Hà Nội , ngày 07 tháng 12 năm 1989 |
Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
I. THẨM QUYỀN RA QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH ÁN (Điều 4 Pháp lệnh)
1. Theo Điều 4 Pháp lệnh thì người được thi hành án có quyền gửi đơn đến Chánh án Toà án đã xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm hoặc sơ thẩm đồng thời là chung thẩm để yêu cầu thi hành án. Theo Điều 4 Pháp lệnh thì Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm vụ án hoặc Chánh án Toà án đã được uỷ thác việc thi hành án ra quyết định thi hành án. Chánh án Toà án cấp tỉnh cũng có thể ra quyết định thi hành án khi được Chánh án Toà án tối cao ra quyết định giao cho việc thi hành bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Do đó, khi thực hiện Điều 4 Pháp lệnh cần chú ý một số điểm sau đây:
a. Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án trong trường hợp Toà án này trực tiếp thi hành án. Nếu Toà án đã xử sơ thẩm không có điều kiện trực tiếp thi hành án thì Chánh án Toà án này uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến thi hành án để Chánh án Toà án nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành.
b. Khi được Chánh án Toà án nhân dân tối cao giao cho việc thi hành bản án hoặc quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, nếu Toà án cấp tỉnh trực tiếp thi hành án thì Chánh án Toà án cấp tỉnh ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành. Nếu Toà án cấp tỉnh không có điều kiện trực tiếp thi hành án thì Chánh án Toà án cấp tỉnh uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án để Chánh án Toà án nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành.
c. Sau khi đã ra quyết định thi hành án mà thấy không có điều kiện thi hành thì Chánh án của Toà án đã ra quyết định thi hành án rút quyết định đó và uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà án nơi có điều kiện thi hành để Chánh án Toà án nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành án cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành.
d. Nếu trong quá trình thi hành án người phải thi hành án chuyển đến cư trú, làm việc ở địa hạt của Toà án khác hoặc tài sản có thể khấu trừ ở nơi đang thi hành án không còn, thì chấp hành viên đề nghị Chánh án Toà án ra quyết định uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà án nơi thi hành án mới để Chánh án Toà án nơi nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành phần bản án quyết định còn lại.
2. Các Toà án cấp tỉnh có thể uỷ thác việc thi hành án thẳng cho Toà án cấp huyện của tỉnh khác. Toà án cấp huyện của tỉnh này có thể uỷ thác việc thi hành án cho Toà án cấp tỉnh hoặc Toà án cấp huyện của tỉnh khác. Sau khi nhận được uỷ thác, nếu thấy việc thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án khác, Toà án nhận được uỷ thác có nhiệm vụ chuyển tiếp cho Toà án có thẩm quyền và báo cho Toà án đã uỷ thác biết và nếu không biết Toà án nào có thẩm quyền thì trả lại cho Toà án đã uỷ thác.
Chấp hành viên phải báo cho Viện kiểm sát cùng cấp và người được thi hành án biết việc uỷ thác thi hành án đến nơi thi hành án mới.
3. Nếu có tranh chấp về thẩm quyền thi hành án thì Chánh án Toà án cấp tỉnh giải quyết tranh chấp giữa các Toà án thuộc cùng một tỉnh; các Chánh án Toà án cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án cấp quân khu phối hợp giải quyết tranh chấp giữa hai Toà án khác tỉnh hoặc giữa Toà án nhân dân và Toà án quân sự.
II. THỜI HIỆU THI HÀNH ÁN (Điều 16 Pháp lệnh)
1. Pháp lệnh quyết định thời hiệu thi hành án là thời hạn bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực thi hành, hết thời hạn đó, nếu không có những căn cứ theo quy định của Pháp lệnh thì bản án hoặc quyết định hết hiệu lực thi hành. Điều đó có nghĩa là:
a. Đối với trường hợp người được thi hành án là công dân: nếu trong thời hạn ba năm kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật mà họ không yêu cầu Toà án thi hành án thì sau đó họ không có quyền yêu cầu Toà án và người phải thi hành án thi hành nữa.
b. Đối với trường hợp người được thi hành án là cơ quan, tổ chức: nếu trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật mà họ không yêu cầu Toà án thi hành án, thì sau đó họ cũng không có quyền yêu cầu Toà án và người phải thi hành án thi hành nữa. Theo quy định tại khoản 2, Điều 15 Pháp lệnh thì Chánh án Toà án phải chủ động ra quyết định thi hành án đối với các bản án hoặc quyết định của Toà án về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí. Do đó, nếu cơ quan, tổ chức được trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại không yêu cầu Toà án thi hành án trong thời hạn nói trên, nhưng Toà án đã chủ động thi hành thì Toà án nộp tài sản thi hành được vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó (bỏ quên, thất lạc hoặc cố ý không đưa bản án ra thi hành...) mà cơ quan, tổ chức được thi hành án không yêu cầu thi hành án và Toà án cũng không chủ động đưa ra bản án, quyết định của Toà án ra thi hành, thì sau thời hạn một năm Toà án cũng không được đưa ra bản án, quyết định ra thi hành nữa. Đối với người có lỗi làm việc không đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành trong thời hạn nói trên gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, buộc bồi thường thiệt hại theo chế độ trách nhiệm vật chất, trách nhiệm dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
2. Đối với trường hợp trong bản án hoặc quyết định của Toà án có quy định việc thi hành theo định kỳ, mà người phải thi hành án đã thi hành được một phần, nhưng sau đó ngừng thi hành, thì người được thi hành án là công dân có quyền yêu cầu Toà án thi hành án trong thời hạn 3 năm; đối với cơ quan, tổ chức thì thời hạn là 1 năm kể từ ngày người phải thi hành án ngừng thi hành.
III. HOÃN THI HÀNH ÁN, TẠM ĐÌNH CHỈ THI HÀNH ÁN (Các Điều 18, 19 Pháp lệnh)
Yêu cầu hoãn thi hành án có thể được thông báo trực tiếp hoặc bằng văn bản, nhưng nếu thông báo trực tiếp quan điện thoại, điện tín. .., thì sau đó cũng phải có văn bản gửi cho Toà án nơi thi hành án. Khi chưa có văn bản mà cần thông báo ngay thì phải do Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp thông báo. Nếu đã có văn bản mà cần thông báo ngay bằng điện thoại, điện tín thì người được giao nhiệm vụ thông báo phải nói rõ họ, tên và chức vụ của mình, số của văn bản, ngày ra văn bản, nội dung chủ yếu của văn bản, người đã ký văn bản. Người nhận thông báo cũng phải cho người thông báo biết họ, tên và chức vụ của mình để xác định trách nhiệm khi cần thiết.
Người yêu cầu cần hoãn thi hành án phải nêu rõ thời gian hoãn thi hành án. Dù yêu cầu hoãn một lần hoặc nhiều lần thì tổng số hoãn thi hành án cũng không được vượt quá ba tháng.
Khi nhận được thông báo trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu hoãn thi hành án, Chánh án Toà án nơi thi hành án phải ra ngay quyết định hoãn thi hành án theo thời hạn do người có thẩm quyền yêu cầu hoãn thi hành án ấn định và tổng số thời gian hoãn thi hành án trong trường hợp này không được vượt quá ba tháng. Hết thời hạn đó, nếu không có các căn cứ để hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án hoặc đình chỉ thi hành án, theo quy định của Pháp lệnh, thì Chánh án Toà án nơi thi hành án phải đưa ngay bản án ra thi hành.
V. VIỆC ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN BỊ KÊ BIÊN (Điều 25 Pháp lệnh)
Theo khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh thì khi kê biên tài sản, nếu các bên đương sự không thoả thuận được về giá hoặc việc định giá có khó khăn, chấp hành viên mời Hội đồng định giá để định giá sơ bộ tài sản đã kê biên. Quy định này nhằm giúp Chấp hành viên ước lượng số tài sản cần kê biên tương ứng với mức đủ để thi hành án và thanh toán các chi phí về thi hành án; đồng thời, nhằm xác định trách nhiệm của người được giao bảo quản tài sản đã kê biên. Do đó, khi kê biên tài sản, nếu các bên đương sự không thoả thuận được về giá thì chấp hành viên cần dựa vào ý kiến của đại diện chính quyền địa phương, người chứng kiến và các bên đương sự để sơ bộ định giá các tài sản bị kê biên. Chấp hành viên chỉ mời Hội đồng định giá tài sản trong những trường hợp người được thi hành án đồng ý nhận tài sản kê biên để thi hành án theo giá do hội đồng định giá quyết định hoặc do tính chất đặc biệt của tài sản mà chấp hành viên không thể ước giá được. Đối với những trường hợp này, Hội đồng định giá cần định giá chính thức tất cả các tài sản đã kê biên của người phải thi hành án để khi bán đấu giá không phải định giá lại, trừ trường hợp có biến động đáng kể về giá.