Thông tư liên tịch 04-TTLN năm 1989 về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù do Toà án nhân dân tối cao- Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ Nội vụ- Bộ Tư pháp ban hành

Số hiệu 04-TTLN
Ngày ban hành 15/08/1989
Ngày có hiệu lực 30/08/1989
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ,Bộ Tư pháp,Tòa án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký Bùi Thiện Ngộ,Nguyễn Quốc Hồng,Trần Đông,Trịnh Hồng Dương
Lĩnh vực Trách nhiệm hình sự,Thủ tục Tố tụng

BỘ NỘI VỤ-BỘ TƯ PHÁP-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 04-TTLN

Hà Nội , ngày 15 tháng 8 năm 1989

 

THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH

CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO -BỘ NỘI VỤ - BỘ TƯ PHÁP SỐ 04- 89 -TTLN NGÀY 15 THÁNG 8 NĂM 1989 VỀ VIỆC GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ

Để thi hành các quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật tố tụng Hình sự về giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù. Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp hướng dẫn như sau:

I. THẨM QUYỀN QUYẾT ĐỊNH GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ

Theo khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Toà án có thẩm quyền quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù là Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt tù; cho nên, từ ngày 1 tháng 1 năm 1989 trở đi Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao và Toà án quân sự cấp cao không có thẩm quyền xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù theo các Điều 49, 51 Bộ luật Hình sự nữa, mà toàn bộ các công việc này thuộc thẩm quyền của các Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà quân sự cấp quân khu.

II.THỦ TỤC XÉT GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ

Thủ tục xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cụ thể như sau:

1. Trại quản lý và cải tạo phạm nhân, gọi tắt là trại cải tạo, do Công an cấp tỉnh quản lý (kể cả trường hợp trại cải tạo do do Công an cấp tỉnh này quản lý nằm ở các tỉnh khác, như một số trại cải tạo thuộc quyền quản lý của Công an thành phố Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh) lập hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho người mà trại có nhiệm vụ quản lý và cải tạo, rồi chuyển hồ sơ đó cho công an cấp tỉnh xem xét. Đối với những người chấp hành hình phạt tù ở trại cải tạo của quân đội do quân khu quản lý thì trại cải tạo lập hồ sơ rồi chuyển cho cơ quan quản lý trại cải tạo ở quân khu để xem xét. Đối với những người chấp hành hình phạt tù ở trại cải tạo do Bộ Nội vụ trực tiếp quản lý thì trại cải tạo lập hồ sơ rồi chuyển cho Bộ Nội vụ để xem xét.

Đối với những người chấp hành hình phạt tù ở trại cải tạo do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý thì trại cải tạo lập hồ sơ rồi chuyển cho cơ quan quản lý các trại cải tạo của Bộ Quốc phòng để xem xét.

2. Khi làm thủ tục đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, trại cải tạo phải sao phần quyết định của bản án. Nếu trước đó người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt thì cần nêu rõ số lần được giảm, người bị kết án đã chấp hành được bao nhiêu thời gian của hình phạt, thái độ cải tạo, tình hình sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình của họ và nêu rõ mức đề nghị giảm cụ thể. Đối với những trường hợp có lý do đáng được khoan hồng thêm thì phải có giấy xác nhận về lý do đó (như giấy chứng nhận của Hội đồng giám định y khoa về bệnh hiểm nghèo, giáy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân, cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội về việc lập công...).

3. Bộ Nội vụ xem xét đề nghị của trại cải tạo do Bộ Nội vụ trực tiếp quản lý, đề xuất ý kiến của mình và thông báo ý kiến đó cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao đồng thời chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nơi có trại cải tạo nói trên.

4. Cơ quan quản lý các trại cải tạo do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý xem xét đề nghị của trại cải tạo, đề xuất ý kiến của mình và thôngbáo ý kiến đó cho Viện kiểm sát quân sự Trng ương, đòng thời chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi có trại cải tạo nói trên.

5. Công an cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý trại cải tạo của quân đội ở quân khu xem xét đề nghị của trại cải tạo do công an cấp tỉnh hoặc do quân khu quản lý, đề xuất ý kiến của mình rồi chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát nhân dân hoặc Viện kiểm sát quân sự cùng cấp.

6. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nghiên cứu hồ sơ do cơ quan công an cùng cấp hoặc hồ sơ do Bộ Nội vụ chuyển đến, đề xuất ý kiến của mình rồi chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nghiên cứu hồ sơ do cơ quan quản lý trại cải tạo của quân đội ở quân khu hoặc hồ sơ do cơ quan quản lý các trại cải tạo do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý chuyển đến, đề xuất ý kiến của mình, rồi chuyển hồ sơ sang Toà án quân sự cấp quân khu.

7. Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu xét việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù bằng Hội đồng gồm có ba thành viên là ba thẩm phán, có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp là kiểm sát viên.

8. Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù họp tại trụ sở Toà án, nhưng cũng có thể đến tận trại cải tạo để tiến hành việc xét giảm và trong trường hợp cần thiết có thể tiếp xúc với người bị kết án tại trại cải tạo.

9. Theo tinh thần của khoản 3 Điều 238 Bộ luật tố tụng hình sự việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù được tiến hành như sau: Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ của trại cải tạo đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án, ý kiến của các cơ quan công an hoặc các cơ quan quản lý trại cải tạo của quân đội đối với đề nghị của trại cải tạo.

Sau đó, Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hoặc Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu phát biểu ý kiến đối với đề nghị của trại cải tạo, đối với ý kiến của các cơ quan công an cấp tỉnh hoặc các cơ quan quản lý trại cải tạo của quân đội và đề xuất ý kiến của mình.

Sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng thảo luận và quyết định việc chấp nhận toàn bộ hoặc một phần đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án hay không chấp nhận đề nghị đó.

10. Quyết định của Toà án về xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù có thể bị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định chấp nhận hoặc bác đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày hết hạn kháng nghị,Toà án đã tiến hành việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù phải chuyển hồ sơ xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cùng với kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm tương ứng là các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao hoặc Toà án quân sự cấp cao.

11. Việc phúc thẩm các quyết định của Toà án về xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù được tiến hành theo quy định tại Điều 225 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Toà án cấp phúc thẩm có quyền:

- Sửa quyết định của Toà án cấp sơ thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án.

- Sửa quyết định của Toà án cấp sơ thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án, nếu có kháng nghị theo hướng đó.

- Giữ nguyên quyết định của Toà án cấp sơ thẩm.

- Huỷ bỏ quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và bác bỏ đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù.

12. Những quyết định đã có hiệu lực pháp luật về việc chấp nhận hoặc bác đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù nếu phát hiện có sai lầm thì có thể bị kháng nghị và xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo các quy định tại các Chương XXIX, XXX Bộ luật tố tụng hình sự.

13. Nhằm đề cao tính giáo dục và khuyến khích việc quyết tâm cải tạo tốt, các trại cải tạo cần thông báo rộng rãi quyết định của Toà án về xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù để toàn thể các trại viên của trại cải tạo được biết.

[...]