VỀ GIẢM THỜI
HẠN HOẶC MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT VÀ CHẤM DỨT THỜI HẠN CHẤP HÀNH BIỆN PHÁP TƯ
PHÁP
Để khuyến khích những người bị kết
án cải tạo tốt, Bộ luật hình sự đã quy định việc giảm thời hạn chấp hành hình
phạt chính và một số hình phạt bổ sung, chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp
tư pháp đối với người chưa thành niên và miễn chấp hành hình phạt.
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành những quy định
đó như sau:
I. ĐIỀU KIỆN
VÀ MỨC GIẢM
A. GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT CHÍNH (ĐIỀU 49 BỘ LUẬT HÌNH SỰ)
1. Điều kiện để được xét giảm
Người đang chấp hành hình phạt
chính nếu có đủ 2 điều kiện sau đây thì được xét giảm:
a) Đã chấp hành được 1/3 thời hạn
hình phạt. Nếu bị phạt tù chung thân thì đã chấp hành hình phạt được 10 năm.
b) “Đã chứng tỏ quyết tâm cải tạo”
thể hiện ở các mặt sau đây:
- Thành thật hối lỗi;
- Tích cực lao động, học tập;
- Nghiêm chỉnh chấp hành chế độ,
nội quy của trại cải tạo hoặc chế độ cải tạo không giam giữ.
2. Mức giảm
Tinh thần chung là: đối với những
người phạm tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, những phần tử tái
phạm nguy hiểm, những tên lưu manh, côn đồ và những kẻ buôn lậu lớn chuyên nghiệp
thì việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt phải rất chặt chẽ. Đối với những
người lao động bị kết án đã cải tạo tốt thì được xét giảm rộng rãi hơn.
Mức giảm là:
a) Đối với hình phạt tù giam.
(Theo Thông tư số 04-89/TTLN ngày 15-8-1989 về việc giảm thời hạn chấp hành
hình phạt tù).
b) Đối với hình phạt cải tạo
không giam giữ và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội thì mức phạt tối đa là
2 năm cho nên nói chung chỉ cần xét giảm một lần, với mức giảm là từ 1/3 đến
1/2 hình phạt đã tuyên. Trong trường hợp người bị kết án đã chấp hành được 1/2
thời hạn hình phạt hoặc đã lập công, hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì có thể miễn
chấp hành phần hình phạt còn lại.
Người được hưởng án treo nếu đã
chấp hành được 1/2 thời hạn thử thách mà có nhiều tiến bộ thì có thể giảm từ
1/3 đến 1/2 thời gian thử thách. Nếu chưa chấp hành được 1/2 thời hạn thử
thách, nhưng đã lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét ngay và có thể
được miễn chấp hành phần thời gian thử thách còn lại.
B. GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT BỔ SUNG (ĐIỀU 50)
Người đang chấp hành hình phạt cấm
cư trú hoặc quản chế nếu có đủ 2 điều kiện sau đây thì được xét miễn chấp hành
phần hình phạt còn lại:
a) Đã chấp hành được 1/2 thời hạn
hình phạt. Thời hạn chấp hành hình phạt quản chế tính từ ngày người bị kết án
trình diện với chính quyền cơ sở là đã chấp hành xong hình phạt tù. Thời hạn chấp
hành hình phạt cấm cư trú tính từ ngày người bị kết án chấp hành xong hình phạt
tù.
b) Đã có nhiều tiến bộ thể hiện ở
việc tích cực lao động, học tập và nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách và
pháp luật, các quy định về cấm cư trú hoặc quản chế.
C. GIẢM HOẶC MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT (ĐIỀU 51)
1. Theo khoản 1 Điều 51, đối với
người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm thì có thể được xét giảm sớm
hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định ở Điều 49 và Điều 50
(đã nói ở mục A và B trên đây). Lý do đáng được khoan hồng thêm là:
- Người bị kết án đã lập công
như: tố cáo, giúp trại cải tạo hoặc cơ quan điều tra phát hiện tội phạm; có
sáng kiến hoặc cải tiến kỹ thuật có giá trị trong sản xuất; cứu được tính mạng
của người khác trong tình thế hiểm nghèo; cứu được tài sản của Nhà nước, của tập
thể hoặc của công dân khi có bão lụt, hỏa hoạn v.v…
- Người bị kết án đã quá già yếu
hoặc đang mắc bệnh hiểm nghèo. Người quá già yếu là người đã 70 tuổi trở lên hoặc
trên 60 tuổi mà thường xuyên ốm yếu. Mắc bệnh hiểm nghèo là mắc một trong những
bệnh rất nguy hiểm đến tính mạng như: lao nặng, ung thư, bại liệt v.v…
Bộ luật hình sự không quy định
thời hạn sớm hơn và mức cao hơn so với thời hạn và mức quy định ở các điều 49
và 50 là bao nhiêu. Tuy nhiên, ít nhất thì người bị kết án cũng phải đã chấp
hành được 1/4 thời hạn của hình phạt; nếu bị phạt tù chung thân thì ít nhất
cũng phải đã ở tù được 8 năm mới được xét giảm lân đầu. Mức giảm mỗi lần có thể
đến 4 năm nhưng phải bảo đảm thời gian thực sự chấp hành hình phạt ít nhất là
2/5 thời hạn hình phạt đã tuyên; nếu bị phạt tù chung thân thì thời gian thực sự
phải ở tù ít nhất là 10 năm.
Trong trường hợp người bị kết án
lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm ngay và cũng có
thể được miễn chấp hành hình phạt còn lại.
2. Theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật
hình sự, người bị kết án chưa chấp hành hình phạt có thể được miễn chấp hành
toàn bộ hình phạt nếu có đủ 2 điều kiện sau đây:
a) Đã lập công lớn hoặc mắc bệnh
hiểm nghèo;
b) Không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa.
Các hình phạt được miễn chấp
hành bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, cần phân biệt là
người lập công lớn, thì có thể được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt; người mắc
bệnh hiểm nghèo chỉ được miễn chấp hành hình phạt: tù giam, cải tạo không giam
giữ, cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, quản chế, cấm cư trú.
Miễn chấp hành hình phạt chỉ áp
dụng đối với những hình phạt chưa được thi hành. Do đó, đối với những hình phạt
đã được thi hành rồi (như: đã nộp tiền phạt) thì không được xét miện hình phạt
đó nữa.
Đối với hình phạt tiền nếu người
bị kết án đã được tạm hoãn nhiều lần và sau 10 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật mà họ vẫn không có khả năng nộp phạt thì cũng có thể xét cho miễn chấp
hành.
3. Đối với những người đựơc giảm
một phần thời hạn chấp hành hình phạt mà lại phạm tội mới nghiêm trọng thì Tòa
án chỉ xét giảm lần sau khi người đó đã chấp hành được 2/3 thời hạn hình phạt tổng
hợp đã tuyên, hoặc 15 năm nếu hình phạt tổng hợp là tù chung thân.
D. GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT VÀ CHẤM DỨT THỜI HẠN THỬ THÁCH HOẶC THỜI HẠN Ở TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN.
1. Giảm thời hạn chấp hành hình
phát chính (Điều 66)
Người chưa thành niên bị kết án
mà cải tạo tốt thì được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt và thời gian sớm
hơn hoặc mức cao hơn so với thời gian và mức quy định ở Điều 49. Do đó, nếu họ
đã chấp hành được 1/4 thời hạn hình phạt và cải tạo tốt thì được xét giảm. Mỗi
lần có thể giảm đến 4 năm nhưng phải bảo đảm thời gian thực sự chấp hành hình
phạt ít nhất là 2/5 của thời hạn hình phạt đã tuyên. Nếu lập công hoặc mắc bệnh
hiểm nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành hình phạt còn lại.
Người chưa thành niên bị thử
thách án treo nếu đã chấp hành được 1/2 thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ
thì được miễn chấp hành phần thời gian thử thách còn lại. Trường hợp chưa chấp
hành được 1/2 thời hạn thử thách, nhưng đã lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo
thì cũng được miễn chấp hành phần thời gian thử thách còn lại.
Người chưa thành niên bị kết án
chưa chấp hành hình phạt, nếu lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và không
còn nguy hiểm cho xã hội thì được xét miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo khoản
2 Điều 51.
2. Chấm dứt thời hạn thử thách
hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng (Điều 61 và Điều 62).
Người chưa thành niên đang chịu
thử thách hoặc đang ở trường giáo dưỡng mà có đủ 2 điều kiện sau đây thì được
chấm dứt thời hạn thử thách hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng:
a) Đã chấp hành được 1 nửa thời
hạn thử thách hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng. Thời hạn thử thách tính từ
ngày quyết định buộc phải chịu thử thách có hiệu lực thi hành, thời hạn ở trường
giáo dưỡng tính từ ngày người chưa thành niên được đưa vào trường.
b) Đã có nhiều tiến bộ thể hiện ở
các mặt:
- Ăn năn hối lỗi, thấy rõ việc
làm sai trái của bản thân;
- Tích cực học tập, lao động và
tu dưỡng;
- Chấp hành đúng nội quy của trường
học hoặc trường giáo dưỡng.
Đ. GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI QUÂN NHÂN.
1. Quân nhân bị kết án cũng được
xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt chính, hình phạt bổ sung theo các điều
49, 50 và 51 của Bộ luật hình sự như đối với dân thường bị kết án đã hướng dẫn ở
các mục A, B, C trên đây.
2. Theo Điều 69 Bộ luật hình sự
thì trong trường hợp quân nhân phạm tội ít nghiêm trọng, do nhu cầu của chiến đấu
hoặc phục vụ chiến đấu mà được người chỉ huy từ cấp trung đoàn trở lên đề nghị
cho ở lại đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ thì Tòa án có thể cho tạm hoãn chấp hành
hình phạt từ 6 tháng đến 1 năm. Trong thời gian đó, nếu người bị kết án đã lập
công chuộc tội hoặc có thái độ sửa chữa tốt thì tuỳ theo công trạng hoặc mức độ
tiến bộ của họ mà quyết định miễn hoặc giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Người
được tạm hoãn nói ở điều này là người mà sự tham gia của họ vào chiến đấu hoặc
phục vụ chiến đấu là cần thiết, chưa có người thay thế, hoặc nếu thay thế ngay
thì ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị.
II. VỀ THỦ TỤC
A- THỦ TỤC XÉT GIẢM THỜI HẠN CHẤP
HÀNH HÌNH PHẠT TÙ GIAM
B. THỦ TỤC XÉT GIẢM THỜI HẠN CHẤP
HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ, CẢI TẠO Ở ĐƠN VỊ KỶ LUẬT CỦA QUÂN ĐỘI,
HÌNH PHẠT BỔ SUNG VÀ CHẤM DỨT BIỆN PHÁP TƯ PHÁP.
1. Khi người bị kết án có đủ điều
kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt thì cơ quan Nhà nước hoặc tổ
chức xã hội được giao nhiệm vụ quản lý, giáo dục người đó, tổ chức cho họ kiểm
điểm trước đơn vị sản xuất, công tác, học tập rồi lập hồ sơ và làm văn bản đề
nghị.
2. Hồ sơ đề nghị giảm thời hạn
chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, thử thách án treo, quản chế, cấm cư
trú, chấm dứt thời gian người chưa thành niên phải chịu thử thách được chuyển
cho cơ quan Công an cấp huyện. Trưởng công an cấp huyện phát biểu ý kiến của
mình rồi chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp. Viện kiểm sát xem xét nêu rõ
quan điểm của mình rồi chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân cùng cấp quyết định.
3. Hồ sơ đề nghị chấm dứt thời hạn
ở trường giáo dưỡng được chuyển thẳng cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện
kiểm sát xem xét, nêu rõ quan điểm của mình rồi chuyển hồ sơ cho Tòa án cùng cấp
quyết định.
4. Hồ sơ đề nghị rút ngắn thời
gian thử thách án treo cho quân nhân được chuyển cho Viện kiểm sát quân sự khu
vực. Đối với người đang cải tạo ở đơn vị kỷ luật quân đội thì hồ sơ chuyển cho
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu. Các Viện kiểm sát quân sự xem xét nêu rõ
quan điểm của mình rồi cuyển hồ sơ cho Tòa án quân sự cùng cấp quyết định.
C. THỦ TỤC MIỄN CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT.
Người chưa chấp hành hình phạt,
nếu có đủ điều kiện để được miễn chấp hành hình phạt thì phải làm đơn gửi Viện
kiểm sát cấp tỉnh có kèm theo giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân, cơ quan Nhà nước,
đơn vị quân đội, hoặc tổ chức xã hội về việc đã lập công lớn; nếu mắc bệnh hiểm
nghèo thì phải có giấy xác nhận của Hội đồng giám định y khoa. Nếu là quân nhân
bị kết án thì gửi đơn cho Viện kiểm sát quân sự quân khu. Các Viện kiểm sát lập
hồ sơ đề nghị Tòa án cùng cấp quyết định.
D. TRƯỚC KHI RA QUYẾT ĐỊNH, NẾU
CHÁNH ÁN KHÔNG NHẤT TRÍ VỚI ĐỀ NGHỊ CỦA CƠ QUAN CÔNG AN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN VỀ ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC GIẢM VÀ MỨC GIẢM THÌ TRAO ĐỔI VỚI CÁC CƠ QUAN ĐÓ ĐỂ THỐNG
NHẤT CHỦ TRƯƠNG. NẾU VẪN KHÔNG NHẤT TRÍ THÌ TÒA ÁN QUYẾT ĐỊNH THEO CHỨC NĂNG CỦA
MÌNH. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CÓ QUYỀN KHÁNG NGHỊ.
E. NÓI CHUNG, MỖI NGƯỜI MỖI NĂM
CHỈ ĐƯỢC XÉT GIẢM MỘT LẦN. TUY NHIÊN, NẾU SAU KHI ĐƯỢC GIẢM MÀ CÓ LÝ DO ĐẶC BIỆT
ĐÁNG KHOAN HỒNG THÊM NHƯ LẬP CÔNG LỚN, MẮC BỆNH HIỂM NGHÈO, THÌ CÓ THỂ ĐƯỢC XÉT
GIẢM LẦN THỨ 2.
Bản sao quyết định của Tòa án về
giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt hoặc chấm dứt thời hạn chấp hành biện
pháp tư pháp được gửi cho Tòa án cấp trên, Viện kiểm sát cùng cấp, trại quản lý
và cải tạo phạm nhân (hoặc chính quyền cơ sở, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
được giao giám sát, giáo dục người bị kết án hoặc người bị áp dụng biện pháp tư
pháp), cơ quan Công an hoặc cơ quan điều tra trong quân đội quản lý trại đó, và
người được giảm hoặc miễn.
Thông tư này thay thế Thông tư
liên ngành số 73/TTLB ngày 11-8-1959 về tha tù trước thời hạn và điểm C trong
Thông tư liên ngành số 68-LB/TATC ngày 1-12-1979 về thi hành nghiêm chỉnh án phạt
giam.
Các ngành Tòa án, Kiểm sát, Công
an địa phương và các Tòa án quân sự, Viện kiểm sát quân sự cần tổ chức nghiên cứu
quán triệt và nghiêm chỉnh thi hành Thông tư này và niêm yết Thông tư này tại
trụ sở.
*Điểm này đã được thay thế
bằng mục II của Thông tư liên ngành số 04-89/TTLN ngày 15-8-1989 về việc giảm
thời hạn chấp hành hình phạt tù.