BỘ CÔNG AN-HỘI ĐỒNG
THẨM PHÁN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
02/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA
|
Hà Nội, ngày 05
tháng 08 năm 1998
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH TẠI CHƯƠNG VIIA "CÁC
TỘI PHẠM VỀ MA TUÝ" CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Để áp dụng thống nhất các quy định của Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp
thứ 11 thông qua ngày 10-5-1997, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số
01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 2-1-1998 "Hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự" (sau
đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 01/1998). Sau khi Thông tư liên tịch này
có hiệu lực thi hành, một số cơ quan bảo vệ pháp luật địa phương đã có công
văn, công điện, điện thoại đề nghị Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cáo, Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể hơn các hành vi "mua bán trái phép
chất ma tuý"; "tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý"; ngoài ra
còn đề nghị hướng dẫn bổ sung một số quy định của Bộ Luật hình sự về "các
tội phạm về ma tuý".
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định tại
Chương VIIA "Các tội phạm về ma tuý" của Bộ Luật hình sự. Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an thống nhất hướng dẫn một
số điểm như sau:
1. Hành vi mua bán trái phép chất
ma tuý quy định tại Điều 185 đ Bộ Luật hình sự là một trong các hành vi sau
đây: a. Bán trái phép chất ma tuý cho người khác;
b. Mua chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người
khác; c. Xin chất ma tuý nhằm bán trái phép cho người khác;
d. Tàng trữ chất ma tuý nhằm bán trái phép cho
người khác; d. Vận chuyển chất ma tuý để bán trái phép cho người khác;
e. Dùng chất ma tuý để trao đổi, thanh toán...
trái phép;
g. Dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi,
thanh toán... lấy chất ma tuý để bán lại trái phép cho người khác.
Khi thực hiện hướng dẫn trên đây cần chú ý:
- Người nào thực hiện một trong các hành vi được
hướng dẫn tại các điểm a và e đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
"mua bán trái phép chất ma tuý" theo Điều 185 đ Bộ Luật hình sự không
phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma tuý do đâu mà có.
- Để có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự người
thực hiện một trong các hành vi được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và g về
tội mua bán trái phép chất ma tuý theo Điều 185 đ Bộ Luật hình sự, thì cần phải
chứng minh được mục đích thực hiện một trong các hành vi này của họ là bán trái
phép chất ma tuý đó. Trong trường hợp không chứng minh được mục đích bán trái
phép chất ma tuý của họ, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà căn cứ vào hướng dẫn
tại tiết b điểm 4 mục II Phần B của Thông tư liên tịch số 01/1998 để xử lý hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "tàng trữ trái phép chất ma
tuý" theo Điều 185c Bộ Luật hình sự hoặc về tội "vận chuyển trái phép
chất ma tuý" theo Điều 185d Bộ Luật hình sự.
- Người nào thực hiện một trong các hành vi phạm
tội được hướng dẫn tại điểm I Thông tư này, mà trước đó hoặc sau đó đã thực hiện
một hoặc hoặc nhiều hành vi phạm tội khác về ma tuý, thì việc truy cứu trách
nhiệm hình sự được thực hiện theo đúng hướng dẫn tại điểm 5 mục II Phần B của
Thông tư liên tịch số 01/1998.
- Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức
cho người nào thực hiện một trong các hành vi trên đây đều bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội "mua bán trái phép chất ma tuý" quy định tại Điều
185đ Bộ Luật hình sự.
- Điều 1 của Thông tư này thay thế tiết d điểm 2
mục II Phần B của Thông tư liên tịch số 01/1998.
2. Hành vi tổ chức sử dụng trái
phép chất ma tuý quy định tại Điều 185i Bộ Luật hình sự là một trong các hành
vi sau đây:
a. Chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động
đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể người khác;
b. Thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm
thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý, cũng như tìm địa điểm
để làm nơi đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể người khác;
c. Cung cấp trái phép chất ma tuý (trừ hành vi
bán trái phép chất ma tuý) cho người khác để họ sử dụng trái phép chất ma tuý;
d. Chuẩn bị chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức
nào (mua, xin, tàng trữ, sản xuất...) nhằm đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể
người khác;
d. Tìm người sử dụng chất ma tuý cho người tổ chức
sử dụng trái phép chất ma tuý nhằm đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể của người
họ;
e. Chuẩn bị phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử
dụng trái phép chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào ( mua, xin, tàng trữ, sản
xuất.. .), nhằm dùng chúng để đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể người khác;
g. Các hành vi khác (ngoài các hành vi được hướng
dẫn tại các điểm a, b, c, d, đ và e trên đây) giúp người khác sử dụng trái phép
chất ma tuý (như: cho người khác tiền, cho người khác vay tiền để người đó mua
chất ma tuý sử dụng trái phép, cho người khác tài sản, cho người khác vay tài sản
không phải là tiền để người đó đổi lấy chất ma tuý sử dụng trái phép; giúp người
khác hút, hít trái phép chất ma tuý; giúp người khác tiêm, chích trái phép chất
ma tuý...), nếu người thực hiện một trong các hành vi này đã:
- Bị kết án về một trong các tội phạm về ma tuý
được quy định trong Bộ Luật hình sự, nhưng chưa được xoá án;
- Bị xử lý vi phạm hành vi về một trong các hành
vi vi phạm về ma tuý được quy định trong Bộ Luật hình sự và được cụ thể hoá
trong Thông tư liên tịch số 01/1998 và Thông tư này, nhưng chưa hết thời hạn được
coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính;
- Được cơ quan tiến hành tố tụng miễn trách nhiệm
hình sự về một trong các hành vi vi phạm về ma tuý được quy định trong Bộ Luật
hình sự và được cụ thể hoá trong Thông tư liên tịch số 01/1998 và Thông tư này,
nhưng chưa quá thời hạn một năm, kể từ ngày được miễn trách nhiệm hình sự;
- Được cơ quan nhà nước (như: Uỷ ban nhân dân hoặc
công an từ cấp phường, xã, thị trấn trở lên, cơ quan nơi công tác...), tổ chức,
đoàn thể (như: tổ dân phố, tổ chức đoàn thanh niên, phụ nữ...) cũng như những
người có trách nhiệm ở cơ quan nơi công tác hoặc ở địa phương nơi cư trú (như:
Thủ trưởng cơ quan, cảnh sát khu vực, đại diện Uỷ ban nhân dân các cấp, Tổ trưởng
tổ dân phố...) giáo dục, nhưng chưa quá thời hạn một năm, kể từ ngày được giáo
dục. Cần chú ý là phải có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng người thực hiện một trong
các hành vi trên đây đã được giáo dục (như: biên bản cuộc họp; bản tự kiểm điểm
hoặc bản cam đoan của người vi phạm; có việc triệu tập đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để giáo dục; người có trách nhiệm đến tận gia đình giáo dục...).
Người nào thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái
phép chất ma tuý, mà còn thực hiện một hay nhiều hành vi tội khác về ma tuý quy
định tại các điều luật tương ứng của Bộ Luật hình sự, thì ngoài việc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo Điều 185i Bộ Luật hình sự, tuỳ từng trường hợp còn có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác đã thực hiện quy định tại
điều luật tương ứng của Bộ Luật hình sự.
- Điểm 2 của Thông tư này thay thế tiết e điểm 2
mục II Phần B của Thông tư liên tịch số 01/1998.
3. Hành vi sử dụng trái phép chất
ma tuý được quy định tại Điều 185l Bộ Luật hình sự là hành vi tự mình hoặc nhờ
người khác đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể của mình dưới bất kỳ hình thức
nào (như: hút, hít, tiêm, chích... chất ma tuý) nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng
chất ma tuý.
Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng
trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 185l Bộ Luật hình sự khi người sử dụng
trái phép chất ma tuý đã được giáo dục nhiều lần và đã bị xử lý hành chính bằng
biện pháp đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh mà còn tiếp tục sử dụng trái phép chất
ma tuý.
- "Đã được giáo dục nhiều lần" được hiểu
là đã được cơ quan nhà nước, tổ chức cũng như những người có trách nhiệm ở địa
phương từ hai lần trở lên vận động, thuyết phục, nhắc nhở hoặc xử phạt vi phạm
hành chính, nhưng vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma tuý.
- Được coi là đã bị xử lý hành chính bằng biện
pháp đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh, nếu biện pháp đưa vào cơ sở bắt buộc chữa
bệnh được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 10 và Điều 24 Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính (được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 6-7-1995) và
theo đúng quy định của Quy chế "Về cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính ngày 6-7-1995" (ban hành kèm theo Nghị định số 20/CP ngày
13-4-1996 của Chính phủ).
Người nào đã bị kết án về tội "sử dụng trái
phép chất ma tuý" mà tái phạm, thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 2 Điều 185l Bộ Luật hình sự.
4. Hành vi chứa chấp việc sử dụng
trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 185k Bộ Luật hình sự là hành vi của người
có địa điểm thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc do mình quản lý biết người khác
là đối tượng sử dụng trái phép chất ma tuý, nhưng vẫn cho họ mượn hoặc thuê địa
điểm đó để họ trực tiếp sử dụng trái phép chất ma tuý nhằm thoả mãn nhu cầu của
họ về sử dụng chất ma tuý.
Người có địa điểm cho người khác mượn hoặc thuê
địa điểm mà biết là họ dùng địa điểm đó không phải để họ sử dụng chất ma tuý nhằm
thoả mãn nhu cầu của họ về sử dụng chất ma tuý mà dùng địa điểm đó để đưa chất
ma tuý vào cơ thể người khác sử dụng trái phép chất ma tuý, thì phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội "tổ cức sử dụng trái phép chất ma tuý" quy
định tại Điều 185i Bộ Luật hình sự.
5. Hành vi cưỡng bức người khác
sử dụng trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 185m Bộ Luật hình sự là hành vi
dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người
khác để buộc họ phải sử dụng trái phép chất ma tuý trái với ý muốn của họ.
6. Hành vi lôi kéo người khác sử
dụng trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 185 m Bộ Luật hình sự là hành vi rủ
rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm khêu gợi sự ham muốn của
người khác sử dụng trái phép chất ma tuý để họ sử dụng trái phép chất ma tuý.
7. Khi truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ
dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý, cần chú ý một số điểm
sau đây:
a. Các hành vi sản xuất trái phép, tàng trữ trái
phép, vận chuyển trái phép, mua bán trái phép được hiểu tương tự như các hành
vi tương ứng được hướng dẫn tại các tiết a, b, c điểm 2 mục II Phần B của Thông
tư liên tịch số 01/1998 và điểm 1 của Thông tư này.
b. Nếu người nào lần đầu sản xuất trái phép tàng
trữ trái phép, vận chuyển trái phép, mua trái phép phương tiện, dụng cụ dùng
vào việc sử dụng trái phép chất ma tuý để cho bản thân mình sử dụng trái phép
chất ma tuý, thì chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng phải bị xử
lý hành chính; nếu đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, thì phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo Điều 185h Bộ Luật hình sự.
c. Được coi là "vật phạm pháp có số lượng lớn"
quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 185h Bộ Luật hình sự, nếu có 5 dụng cụ, phương
tiện trở lên (có thể là cùng loại, có thể là khác loại).
8. Cần chú ý về một số tình tiết
là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt như sau:
a. Trong các điều luật về tội phạm ma tuý có quy
định tình tiết "đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm", thì chỉ
tính các trường hợp bị xử phạt hành chính kể từ ngày 22-5-1997 trở đi;
b. Phải coi là phạm tội "đối với với nhiều
người" trong các điều luật về tội phạm về ma tuý có quy định tình tiết này
là tình tiết định khung hình phạt, nếu trong một lần mà người phạm tội đã thực
hiện tội phạm đối với hai người trở lên (như: tổ chức sử dụng trái phép chất ma
tuý trong một lần đối với hai người trở lên; trong một lần cưỡng bức, lôi kéo
hai người trở lên sử dụng trái phép chất ma tuý...);
c. Phải áp dụng tình tiết định
khung hình phạt "phạm tội nhiều lần" quy định tại điểm b khoản 2 Điều
185d Bộ Luật hình sự trong các trường hợp sau đây:
- Mua trái phép chất ma tuý từ hai lần trở lên
nhằm bán trái phép cho người khác, không phân biệt bán một lần hoặc bán nhiều lần;
- Mua trái phép chất ma tuý một lần và bán lại
trái phép số lượng chất ma tuý đó từ hai lần trở lên cho người khác, không phân
biệt bán lại từ hai lần trở lên cho một người hoặc cho nhiều người;
- Mua trái phép chất ma tuý một lần và bán lại
trái phép số lượng chất ma tuý đó trong cùng một lúc cho hai người trở lên.
9. Sửa đổi, bổ sung một số hướng
dẫn của Thông tư liên tịch số 01/1998 như sau:
a. Đoạn 2 tiết a điểm 1 mục II phần B của Thông
tư liên tịch số 01/1998 được hướng dẫn bổ sung lại như sau:
"Cần lưu ý rằng nhựa thuốc phiện bao gồm:
nhựa thuốc phiện lấy từ cây thuốc phiện, nhựa thuốc phiện đã được cô đặc thành
dạng keo, dạng bi... Đối với dung dịch thuốc phiện để tiêm, chích thì không coi
là chất ma tuý ở thể lỏng mà cần xác định hàm lượng thuốc phiện trong dung dịch
để tính trọng lượng của thuốc phiện. Đối với xái thuốc phiện thì không coi là
nhựa thuốc phiện mà cần phải xác định hàm lượng thuốc phiện trong xái thuốc phiện
để tính trọng lượng của thuốc phiện".
b. Hướng dẫn tại dấu (+) thứ
hai của dấu (*) thứ hai tiết b điểm 4 mục II phần B của Thông tư liên tịch số
01/1998 được sửa đổi, bổ sung như sau:
"Người nào đã bị kết án về một trong các tội
phạm về ma tuý được quy định trong Bộ Luật hình sự, nhưng chưa được xoá án mà lại
tàng trữ trái phép hoặc vận chuyển trái phép một trong các chất ma tuý được hướng
dẫn trên đây (được hướng dẫn tại dấu (*) thứ nhất tiết b điểm 4 mục II phần B của
Thông tư liên tịch số 01/1998) nếu không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm,
thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 185c hoặc khoản 1 Điều
185d tương ứng; nếu thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 185c hoặc khoản 2 Điều 185d tương ứng.
Cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản 1 Điều 185c hoặc khoản 1 Điều 185d tương ứng người nào tàng trữ trái phép
hoặc vận chuyển trái phép từ hai chất ma tuý trở lên và mỗi chất ma tuý có trọng
lượng được hướng dẫn trên đây (được hướng dẫn tại dấu (*) thứ nhất tiết b điểm
4 mục II phần B của Thông tư liên tịch số 01/1998)".
10. Thông tư này có hiệu lực kể
từ ngày 20 tháng 8 năm 1998.
- Các hướng dẫn trong Thông tư này, nếu làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự so với văn bản hướng dẫn trước đây, thì được áp dụng
khi điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước khi Thông tư này
có hiệu lực.
- Đối với các trường hợp mà người phạm tội đã bị
kết án đúng theo các văn bản hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp
luật, thì không áp dụng các hướng dẫn trong Thông tư này để kháng nghị theo
trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Đối với trường hợp đang tiến hành điều tra,
truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
mà được áp dụng các hướng dẫn trong Thông tư này để tuyên bố miễn trách nhiệm
hình sự cho bị can, bị cáo thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cần giải
thích cho họ rõ rằng trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự này không phải là
cơ sở của việc đòi bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra.
Trong quá trình thực hiện Thông tư này, nếu thấy
có vướng mắc, thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án báo cáo ngay cho Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an để có hướng dẫn
kịp thời.
Lê Thế Tiệm
(Đã ký)
|
Phạm Sĩ Chiến
(Đã ký)
|
Trịnh Hồng
Dương
(Đã ký)
|