BỘ CÔNG AN-BỘ TƯ
PHÁP-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC
|
Hà Nội , ngày 25
tháng 9 năm 2001
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA BỘ TƯ PHÁP - BỘ CÔNG AN - TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC NGÀY 25 THÁNG
9 NĂM 2001 VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH TẠI CHƯƠNG XV "CÁC TỘI
XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH" CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
Để áp dụng đúng và thống nhất
các quy định tại Chương XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn
nhân và gia đình" của Bộ luật hình sự năm 1999 (sau đây viết tắt là BLHS), Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn một số điểm như sau:
1. Về tình tiết
"đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm"
Đối với các tội: "cưỡng ép
kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ" (Điều 146
BLHS); "vi phạm chế độ một vợ, một chồng" (Điều
147 BLHS); tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn" (Điều 148 BLHS);
"ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công
nuôi dưỡng mình" (Điều 151 BLHS); "từ chối hoặc trốn
tránh nghĩa vụ cấp dưỡng" (Điều 152 BLHS), BLHS có quy định tình tiết "đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" trong cấu thành tội phạm; do đó,
cần chú ý:
Bị coi là "đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" nếu trước đó người nào đã bị xử
phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong một điều luật nói
trên, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính theo
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà lại:
a) Thực hiện chính hành vi đó.
Ví dụ: trước đó A đã bị xử phạt hành chính về hành vi cưỡng ép kết hôn, chưa hết
thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính mà lại thực hiện hành vi cưỡng
ép kết hôn; trước đó B đã bị xử phạt hành chính về hành vi tổ chức tảo hôn,
chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính lại thực hiện hành vi
tổ chức tảo hôn; v.v...
b) Thực hiện một trong những
hành vi được liệt kê trong điều luật tương ứng đó. Ví dụ: trước đó A đã bị xử
phạt hành chính về hành vi cưỡng ép kết hôn, chưa hết thời hạn để được coi là
chưa bị xử phạt hành chính lại thực hiện hành vi cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ; trước đó B đã bị xử phạt hành chính về hành vi hành hạ vợ, con, chưa hết thời
hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính lại thực hiện hành vi ngược đãi
cha, mẹ; v.v...
Hết thời hạn để được coi là chưa
bị xử phạt hành chính là hết thời hạn do pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
quy định. Theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 1995 thì cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu quá
một năm, kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu
thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm, thì được coi như chưa bị xử phạt
vi phạm hành chính.
2. Về tội cưỡng
ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ (Điều
146 BLHS)
2.1. Cưỡng ép kết hôn là dùng mọi
thủ đoạn bắt buộc người khác (bên nam, bên nữ hoặc cả hai bên) phải kết hôn
trái với ý muốn của họ.
Cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ là dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết
hôn theo luật định hoặc có hành vi cản trở người khác duy trì quan hệ hôn nhân
tự nguyện, tiến bộ hoặc buộc họ phải cắt đút quan hệ hôn nhân đó.
Hành vi cưỡng ép kết hôn, cản trở
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như
hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc thủ đoạn khác.
a) Hành hạ, ngược đãi là đối xử
tàn ác, tồi tệ đối với người khác gây đau khổ về thể xác hoặc tinh thần kéo
dài, như: thường xuyên đánh đập (có thể không gây thương tích), giam hãm, bắt
nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, nhiếc móc, làm nhục v.v... nhằm mục đích cưỡng
ép việc kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Cần lưu ý rằng, hành
vi hành hạ, ngược đãi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn
nhân tự nguyện, tiến bộ, cho nên không truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội
hành hạ, ngược đãi quy định tại Điều 110 hoặc Điều 151 BLHS.
b) Uy hiếp tinh thần là đe dọa sẽ
gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, tài sản hoặc lợi ích thiết thân
của người bị đe doạ làm cho người đó có căn cứ để lo sợ thực sự mà phải chịu
khuất phục như đe doạ sẽ đốt nhà, giết người thân, tiết lộ bí mật đời tư của
người bị đe doạ, bố mẹ hoặc người thân trong gia đình đe doạ sẽ tự tử nếu hai
bên nam nữ lấy nhau, con đe doạ là sẽ bỏ nhà hoặc tự tử nếu bố, mẹ lấy vợ, lấy
chồng mới v.v...
c) Yêu sách của cải là đòi hỏi của
cải một cách quá đáng, không nhân nhượng và coi đó là một trong những điều kiện
để được kết hôn nhằm cản trở hôn nhân tự nguyện giữa đôi bên nam nữ.
d) Thủ đoạn khác có thể là buộc
một bên hoặc cả hai bên đi xa nhằm chia rẽ họ; bắt cóc người không muốn lấy
mình làm vợ hoặc làm chồng để buộc họ phải kết hôn trái ý muốn; một bên gia
đình tiến hành dựng vợ, gả chồng cho người thân của mình với người khác trái với
ý muốn của người đó nhằm chia rẽ người thân đó với người mà họ muốn tự nguyện kết
hôn; v.v...
2.2. Chỉ có thể truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội này khi người vi phạm đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm.
2.3. Chủ thể của tội này có thể
là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Thông thường, chủ thể của
tội này là bên nam hoặc bên nữ muốn kết hôn; người có ảnh hưởng nhất định trong
gia đình của bên nam hay bên nữ (như: ông, bà, cha, mẹ, anh, chị...); người có ảnh
hưởng trực tiếp đến bên nam hoặc bên nữ (như: người vợ cũ, chồng cũ, con sau
khi ly hôn, người tình cũ...); người có ảnh hưởng trong công tác (như:
thủ trưởng đối với nhân viên) hoặc về tín ngưỡng, tôn giáo (như: các chức sắc
trong tôn giáo đối với tín đồ).
3. Về tội vi phạm
chế độ một vợ, một chồng (Điều 147 BLHS)
3.1. Chung sống như vợ chồng
là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có
vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng,
có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một
gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con
chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã
được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...
3.2. Chỉ có thể truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Hành vi vi phạm chế độ một vợ,
một chồng gây hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả nghiêm trọng có thể là
làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng,
con vì thế mà tự sát, v.v...
b) Người vi phạm chế độ một vợ,
một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
3.3. Trong trường
hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt
việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì
quan hệ đó, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm
chế độ một vợ, một chồng theo khoản 2 Điều 147 BLHS mà
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội không chấp hành án theo Điều 304 BLHS.
4. Về tội tổ chức
tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 148 BLHS)
4.1. Tảo hôn là việc lấy
vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình.
4.2. Tổ chức tảo hôn là việc tổ
chức cho những người chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân
và gia đình lấy vợ, lấy chồng. Người tổ chức tảo hôn biết rõ hoặc có căn cứ để
biết rõ là cả hai người hoặc một trong hai người mà mình tổ chức lễ cưới là
chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định. Trong trường hợp, người tổ chức thực
sự không biết việc đó hoặc bị nhầm lẫn về độ tuổi, thì không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội này.
4.3. Chỉ có thể truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội tổ chức tảo hôn khi người vi phạm đã bị xử phạt hành
chính về hành vi này mà còn vi phạm.
4.4. Chỉ có thể truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội tảo hôn khi có đầy đủ các dấu hiệu sau đây:
a) Người vi phạm cố ý duy trì
quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn;
b) Đã có quyết định của Tòa án
buộc chấm dứt quan hệ đó;
c) Đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm.
4.5. Chủ thể của tội tổ
chức tảo hôn là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng thông
thường là: ông, bà, cha, mẹ, anh, chị hoặc người thân thích của bên nam, bên nữ.
Chủ thể của tội tảo hôn là bất kỳ
người nào có năng lực trách nhiệm hình sự đã đủ tuổi kết hôn theo quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình. Theo quy định tại Điều 9 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tuổi kết hôn đối với nam là từ 20 tuổi trở
lên, tuổi kết hôn đối với nữ là từ 18 tuổi trở lên.
5. Về tội đăng
ký kết hôn trái pháp luật (Điều 149 BLHS)
5.1. Đăng ký kết hôn trái
pháp luật là việc người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn xác nhận sự
kiện kết hôn (ghi vào sổ đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận kết hôn) cho
người mà mình biết rõ là không đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 9 hoặc thuộc một trong các trường hợp cấm kết
hôn quy định tại Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
5.2. Chỉ truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội đăng ký kết hôn trái pháp luật, khi người vi phạm đã bị xử lý kỷ
luật về hành vi này, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là xoá kỷ luật mà còn
vi phạm.
Theo khoản 2 Điều
6 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật
và trách nhiệm vật chất đối với công chức, thì thời gian hiệu lực của kỷ luật đối
với công chức là 12 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực thi hành.
Công chức được coi là xoá kỷ luật nếu sau 12 tháng kể từ ngày có quyết định kỷ luật,
công chức không tái phạm và không có những vi phạm đến mức phải bị xử lý kỷ luật
và được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt hiệu lực kỷ luật.
Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi cho người bị kỷ luật thì cũng được coi là xoá kỷ
luật nếu sau 12 tháng kể từ ngày có quyết định kỷ luật, công chức không tái phạm
và không có những vi phạm đến mức phải bị xử lý kỷ luật, mặc dù cơ quan, đơn vị
có thẩm quyền chưa ra quyết định chấm dứt hiệu lực kỷ luật.
Đối với cán bộ tư pháp xã, phường,
thị trấn do pháp luật chưa có quy định thời hạn được xoá kỷ luật nên thời gian
hiệu lực của kỷ luật cũng được tính là 12 tháng, kể từ ngày Chủ tịch UBND xã,
phường, thị trấn ra quyết định xử lý kỷ luật.
Cần lưu ý, để truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội này thì chỉ tính những trường hợp "đã bị xử lý kỷ luật về
hành vi này mà còn vi phạm" kể từ ngày 01/7/2000 trở đi, tức là ngày BLHS có hiệu lực thi hành.
5.3. Chủ thể của tội
này là người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn, cụ thể là:
a) Người đại diện chính quyền hoặc
người đại diện của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước ta ở
nước ngoài có thẩm quyền ký giấy chứng nhận kết hôn;
b) Cán bộ hộ tịch làm thủ tục
đăng ký kết hôn ở UBND xã, phường, thị trấn hoặc cán bộ của Sở Tư pháp đối với
trường hợp đăng ký kết hôn có nhân tố nước ngoài;
c) Cán bộ làm thủ tục đăng ký kết
hôn ở các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước
ngoài.
6. Về tội loạn
luân (Điều 150 BLHS)
6.1. Loạn luân là việc
giao cấu giữa cha, mẹ với con; giữa ông, bà với cháu nội, cháu ngoại; giữa anh
chị em cùng cha mẹ; giữa anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha.
6.2. Để truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội loạn luân cần phải xác định rõ hành vi giao cấu là thuận tình,
không có dấu hiệu dùng vũ lực hoặc cưỡng ép và được thực hiện với người từ đủ
16 tuổi trở lên. Trong trường hợp tuy hành vi giao cấu giữa những người nói
trên là thuận tình, nhưng nếu hành vi đó được thực hiện đối với trẻ em từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi, thì không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội loạn luân
mà phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giao cấu với trẻ em (điểm
c khoản 2 Điều 115 BLHS).
Trong trường hợp hành vi loạn
luân kèm theo dấu hiệu dùng vũ lực, đe đoạ dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác, thì tuỳ trường hợp người
thực hiện hành vi đó phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm (điểm e khoản 2 Điều 111 BLHS) hoặc tội hiếp dâm trẻ em (điểm a khoản 2 Điều 112 BLHS); nếu hành vi loạn luân kèm theo
dấu hiệu lợi dụng quan hệ lệ thuộc khiến bên kia phải miễn cưỡng cho giao cấu,
thì tuỳ trường hợp người thực hiện hành vi đó phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội cưỡng dâm (điểm d khoản 2 Điều 113 BLHS) hoặc tội
cưỡng dâm trẻ em (điểm a khoản 2 Điều 114 BLHS); trong mọi
trường hợp hành vi loạn luân được thực hiện đối với trẻ em dưới 13 tuổi, thì
người thực hiện hành vi loạn luân phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
hiếp dâm trẻ em (điểm a khoản 2 Điều 112 BLHS) .
7. Về tội ngược
đãi, hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình
(Điều 151 BLHS)
7.1. Hành vi ngược đãi,
hành hạ thông thường được hiểu là việc đối xử tồi tệ về ăn, mặc, ở và về các mặt
sinh hoạt hàng ngày khác đối với người thân như: nhiếc móc, bắt nhịn ăn, nhịn uống,
bắt chịu rét, mặc rách một cách không bình thường hoặc có hành vi bạo lực xâm
phạm thân thể người bị hại như: đánh đập, giam hãm,... làm cho người bị hại bị
đau đớn về thể xác và tinh thần.
7.2. Chỉ có thể truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Hành vi ngược đãi, hành hạ
gây hậu quả nghiêm trọng, tức là làm cho người bị ngược đãi, hành hạ luôn luôn
bị giày vò về mặt tình cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị
thương tích, tổn hại đến sức khỏe. Hậu quả thương tích hay tổn hại đến sức khỏe
là do lỗi vô ý; nếu dẫn đến chết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
vô ý làm chết người (Điều 98 BLHS).
Trong trường hợp thương tích, tổn
hại sức khoẻ hoặc chết người xảy ra do lỗi cố ý, thì tuỳ trường hợp cụ thể mà bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khoản tương ứng của Điều
104 BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác hoặc Điều 93 BLHS về tội giết người; nếu làm cho nạn
nhân bị uất ức mà tự sát, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bức
tử theo Điều 100 BLHS.
b) Người thực hiện hành vi ngược
đãi, hành hạ đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
7.3. Đối tượng bị xâm hại quy định
tại Điều 151 BLHS bao gồm:
a) Ông bà, bao gồm ông bà nội,
ông bà ngoại;
b) Cha mẹ, bao gồm cha mẹ đẻ,
cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế;
c) Vợ chồng theo quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình;
d) Con, bao gồm con đẻ (con
trong giá thú và con ngoài giá thú); con nuôi; con rể; con dâu; con riêng của vợ
hoặc con riêng của chồng;
đ) Cháu, bao gồm cháu nội, cháu
ngoại;
e) Người có công nuôi dưỡng mình
là anh chị em, cô, dì, chú, bác, bà con thân thích hoặc những người khác đã hoặc
đang nuôi dưỡng người thực hiện hành vi ngược đãi, hành hạ.
Cần lưu ý là, chỉ những trường hợp
hành hạ, ngược đãi các đối tượng nêu trên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội này; nếu hành vi hành hạ, ngược đãi được thực hiện đối với người không thuộc
những đối tượng nêu trên, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
hành hạ người khác theo Điều 110 BLHS; trường hợp hành vi
hành hạ, ngược đãi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng ép kết hôn hoặc
cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ theo quy định tại Điều 146
BLHS.
8. Về tội từ chối
hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 152 BLHS)
8.1. Nghĩa vụ cấp dưỡng
là nghĩa vụ của một người phải đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng theo quy định
của pháp luật hôn nhân và gia đình. Theo quy định tại các điều từ Điều 50 đến Điều 60 Chương VI của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000, thì nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa:
a) Vợ và chồng;
b) Cha, mẹ và con;
c) Ông bà nội, ông bà ngoại và
cháu;
d) Anh chị em với nhau.
8.2. Có khả năng thực tế để thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng có tiền, tài
sản hoặc thu nhập có khả năng bảo đảm cuộc sống của gia đình với mức sống trung
bình ở địa phương.
8.3. Hành vi trốn tránh hoặc từ
chối nghĩa vụ cấp dưỡng thường được biểu hiện bằng việc không chịu đóng góp tiền,
tài sản để cấp dưỡng mặc dù có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó.
8.4. Chỉ có thể truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, khi có đầy đủ
các dấu hiệu sau đây:
a) Người vi phạm phải là người
có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật hôn
nhân và gia đình;
b) Người vi phạm từ chối hoặc trốn
tránh nghĩa vụ cấp dưỡng;
c) Việc từ chối hoặc trốn tránh
nghĩa vụ cấp dưỡng đã gây hậu quả nghiêm trọng (tức là làm cho người được cấp
dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ như: ốm đau, bệnh tật,
v.v
). Trong trường hợp chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì người vi phạm phải đã
bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
8.5. Trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử về tội phạm này cần lưu ý, nếu đã có bản án, quyết định của Toà
án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ của mình mà người
đó vẫn cố tình không chấp hành, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần
thiết, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 304 BLHS về
tội không chấp hành án.
9. Hiệu lực thi
hành của Thông tư
Thông tư này có hiệu lực kể từ
ngày 10 tháng 10 năm 2001.
Trong quá trình thực hiện, nếu
có gì vướng mắc hoặc chưa được hướng dẫn cần phải giải thích, hướng dẫn bổ
sung, thì đề nghị phản ánh cho Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp
thời.
KT.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Phó
Viện Trưởng
Phạm
Sĩ Chiến
(Đã
ký)
|
KT.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Thứ
trưởng
Uông
Chu Lưu
(Đã
ký)
|
KT.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
Phó
Chánh án
Đặng
Quang Phương
(Đã
ký)
|
KT.
Bộ trưởng Bộ Công an
Thứ
trưởng
Lê
Thế Tiệm
(Đã
ký)
|