BỘ
THUỶ LỢI-TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
29-TT-LB
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 10 năm 1964
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH TRỒNG CÂY GÂY RỪNG Ở CÁC CÔNG TRÌNH THỦY LỢI
BỘ TRƯỞNG BỘ THỦY LỢI - TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC LÂM
NGHIỆP
Kính gửi: Ủy
ban hành chính các tỉnh, thành, khu
Trồng cây gây rừng trên các đầu
nguồn, hồ chứa nước và dọc theo các nông giang, kênh máng, đê điều có một
ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng. Vì vậy, từ năm 1960, liên Bộ Nông
lâm - Thủy lợi đã có Thông tư số 02-TT-LB ngày 11-4-1960 cho các địa phương đẩy
mạnh công tác này, và đầu năm 1963 lại phối hợp tổ chức một hội nghị trồng rừng
bảo vệ đê biển.
Thông tư và hội nghị trên đã nêu
một số vấn đề cụ thể, nhưng chỉ mới trong phạm vi trồng cây ven đê, còn các
công trình thủy lợi khác nói chung chưa đề cập đến. Mặt khác, ngay trong những
điểm đã quy định, kiểm điểm lại đến nay nhiều địa phương vẫn chưa coi trọng
đúng mức.
Dựa trên tinh thần những nghị
quyết lần thứ 5, thứ 8 của Trung ương Đảng, dựa theo Thông tư số 466-TTg ngày
06-12-1961 của Thủ tướng Chính phủ và dựa vào chủ trương, đường lối của hội nghị
thủy lợi toàn miền Bắc trong tháng 11-1963 vừa qua, thông tư này quy định
có tính chất toàn diện nhiệm vụ, phương hướng và biện pháp trồng cây gây rừng
trên tất cả các loại công trình thủy lợi (gọi tắc là trồng cây thủy lợi).
Bộ và Tổng cục mong Ủy ban hành
chính các cấp nghiên cứu kỹ tinh thần của thông tư này và tình hình thực tế của
địa phương để có chủ trương, biện pháp lãnh đạo thật mạnh mẽ, vững chắc công
tác này gắn liền với lãnh đạo phong trào làm thủy lợi hai năm đã được phát động.
I. XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH TRỒNG
CÂY THỦY LỢI.
Trước hết cần xác định rõ trồng
cây gây rừng trên các công trình thủy lợi sẽ đưa lại những mục đích gì để thấy
rõ mục tiêu phấn đấu và quyết tâm thực hiện.
Có mấy mục đích chính:
1. Tạo cơ sở tốt để bảo
vệ tích cực các công trình thủy lợi, cụ thể là:
a) Làm hàng rào chắn sóng, cho
đê biển, đê sông;
b) Cố định đất, chống sụt lở, chống
xói mòn, bảo vệ các đầu nguồn, ao, hồ, bảo vệ các nông giang, đê điều;
c) Ngăn nước lũ; tăng lượng nước
ngầm trong đất làm cho lưu lượng khe, suối, sông, ngòi, hồ, ao được điều hòa;
d) Che bóng hạn chế sự bốc hơi ở
các ao, hồ; nông giang;
e) Có nguyên liệu như tre, cọc,
gỗ, v .v… dùng cho việc xây dựng, bồi trúc các công trình thủy lợi.
2. Gây thành nhiều
hàng cây; dải rừng tạo thành một màng lưới ngang dọc khắp đồng ruộng nông thôn,
có tác dụng hết sức quan trọng đảm bảo cho sản lượng nông nghiệp thu hoạch cao
và vững chắc, cụ thể là:
a) Ngăn gió, hạn chế bão; bảo vệ
cho lúa; màu.
b) Tăng độ ẩm không khí, giảm lượng
nước bị bốc hơi của đồng ruộng, do đó hạn chế được hạn hán, đồng thời tránh được
hiện tượng “đất mặn” do muối theo nước từ dưới sâu đưa lên.
c) Ngăn cản sự lai giống tự
nhiên hỗn tạp làm giảm giá trị kinh tế và giảm sản lượng nông nghiệp;
d) Có điều kiện ngăn chặn sâu bọ
lan tràn từ cánh đồng này sang cánh đồng khác;
e) Cung cấp lá làm phân xanh;
tăng thêm nguồn phân bón ruộng.
3. Tạo nguồn dự trữ
cung cấp gỗ, củi, hoa quả và nhiều sản phẩm khác, tăng thu nhập cho xã viên,
tăng tích lũy cho hợp tác xã, tăng của cải vật chất cho xã hội.
4. Ngoài ra, còn tạo
được bóng mát, tạo nên những phong cảnh đẹp, góp phần đổi mới nông thôn xã hội
chủ nghĩa làm cho người nông dân được thoải mái, dễ chịu trong giờ làm việc
cũng như lúc nghỉ ngơi, đồng thời còn có tác dụng về mặt bảo vệ quốc phòng.
Trong bốn mục đích trên thì hai
mục đích “bảo vệ công trình thủy lợi” và “phòng hộ cho đồng ruộng” là chủ yếu
nhất, cho nên từ quy hoạch thiết kế đến việc chọn loại cây trồng v .v… đều phải
quán triệt hai mục đích ấy, còn những mục đích khác chỉ là kết hợp.
II. QUY ĐỊNH DIỆN PHẢI TRỒNG
Những diện sau đây cần phải tiến
hành trồng cho được:
1. Dọc theo chân đê biển
(phía biển) rộng 100 mét, được liệt vào khu vực phòng hộ, cần đặt kế hoạch trồng
rừng nước mặn càng nhanh, càng nhiều càng tốt, đồng thời phải triệt để bảo vệ
những rừng cây đã có, nghiêm cấm mọi việc làm có hại đến cây cối trong khu vực
này.
2. Dọc theo chân đê
sông (phía sông) từ 5 mét trở lại, cần trồng thành một lũy tre liên tục đề án
ngữ cho đê. Kể cả những nơi hiện nay đang làm hoa màu cũng cần vận động chuyển
sang kinh doanh trồng tre.
3. Dọc theo các bờ
khoanh vùng, dọc theo các nông giang, kênh máng, trừ những nơi có khó khăn đặc
biệt, trừ những vị trí xét có thể phạm đến an toàn của công trình, còn lại đều
phải tận dụng đất “lưu không”, đất trên bờ kênh, bờ mương để trồng cây, gây rừng
kết hợp trồng cỏ cho trâu bò, trồng dâu nuôi tằm mà không nên trồng hoa màu ngắn
ngày, vừa làm hỏng đất vừa không có tác dụng phòng hộ.
4. Trên các đầu nguồn
(sườn dốc) đổ nước trực tiếp xuống các ao, hồ, kho chứa nước, các kênh, máng và
các công trình thủy lợi khác nếu đã có rừng phải bảo vệ tích cực, nếu chưa có rừng
phải đặt kế hoạch trồng cho được, nếu khai thác phải theo phương thức đặt chọn,
và tích cực tu bổ, giặm thêm cây con, phải có tác dụng làm cho rừng tăng thêm
khả năng phòng hộ nguồn nước mới khai thác.
Căn cứ vào quy định chung trên
đây và bảng hướng dẫn chi tiết cách trồng cây (kèm theo thông tư này) (1)
Ủy ban hành chính các tỉnh, thành, khu sẽ quy định cụ thể diện phải trồng đối với
từng hệ thống nông giang, kênh máng, đê điều…thuộc phạm vi mình.
Từ nay đến cuối năm 1965, những
xã, hợp tác xã đã có quy họach thủy lợi, hoặc quy hoạch trồng cây gây rừng, hay
đã có cả hai quy hoạch, cần cố gắng trồng xong ở các cơ sở cũ, đồng thời
chuẩn bị cho thật đầy đủ cây con, giống má để trồng ở các kênh máng mới đào đắp.
Thực hiện khẩu hiệu “kênh máng,
đê điều đào đắp đến đâu, cây xanh mọc lên đến đó”. Nhưng cần chú ý những
vùng đất chua mặn mới đắp lên mà muốn trồng ngay thì phải cải tạo đất cho kỹ hoặc
đào hố để sau một thời gian 3, 4 tháng mới trồng.
III. PHƯƠNG CHÂM THỰC HIỆN
1. Lấy lợi ích bảo vệ
công trình thủy lợi và phòng hộ đồng ruộng làm cơ sở, cố gắng kết hợp với lợi
ích khác.
2. Dung hòa lợi ích
trước mắt, lợi ích cục bộ với lợi ích lâu dài, toàn diện, lấy lợi ích lâu dài
và toàn diện làm căn bản.
3. Dựa vào quần chúng:
lấy lực lượng hợp tác xã làm trung tâm, đồng thời huy động các lực lượng khác
như cơ quan, công, nông, lâm trường, bộ đội, học sinh v .v…
4. Ai trồng cây nấy hưởng
lợi.
IV. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để thực hiện chủ trương trên, Bộ
và Tổng cục nhấn mạnh mấy biện pháp sau đây:
A. XÂY DỰNG QUY HOẠCH TRỒNG CÂY THỦY LỢI
Trồng cây gây rừng trên các công
trình thủy lợi về căn bản sẽ đưa lại nhiều tác dụng to lớn, nhưng nếu làm không
đúng quy cách, đúng phương hướng, không những về mặt lợi ích bị hạn chế, mà còn
có thể gây ra tổn thất đáng tiếc, vì vậy điều kiện cơ bản trước tiên là phải
làm quy hoạch “trồng cây thủy lợi”.
Quy hoạch phải thể hiện tình
hình các công trình thủy lợi, diện tích, chiều dài các hệ thống, những đoạn, những
khu vực cần trồng hoặc không nên trồng, số lượng, loại cây phải trồng, thời
gian thực hiện và những biện pháp giải quyết về đất đai, giống, vốn, nhân lực.
Quy hoạch trồng cây thủy lợi phải
gắn liền với các quy hoạch thủy lợi, quy hoạch thủy lợi phải có phần trồng cây
thủy lợi.
Những tỉnh, huyện, xã, hợp tác
xã đã xây dựng xong quy hoạch thủy lợi nếu chưa có phần trồng cây thủy lợi thì
nay phải bổ sung bằng xây dựng một quy hoạch trồng cây thủy lợi.
Những tỉnh, huyện, xã, hợp tác
xã chưa xây dựng quy hoạch thủy lợi, khi xây dựng phải đồng thời xây dựng phần
trồng cây thủy lợi.
Trong bản quy hoạch “trồng cây
gây rừng” hay “quy hoạch thủy lợi" đều phải có sự tham gia trực tiếp của
hai ngành thủy lợi – lâm nghiệp.
Khi xây dựng quy hoạch, thiết kế
các công trình nông giang, kênh máng ngành thủy lợi chú ý kết hợp tạo thành hệ
thống các đai rừng, chắn gió cho đồng ruộng bằng cách bố trí các kênh máng
chính chạy theo hướng càng thẳng góc càng tốt với gió mùa đông bắc (ở Bắc bộ)
hay gió nam Lào (ở các tỉnh liên khu 4) và gió bão (vùng ven biển).
Khi hướng dẫn thi công làm đất
cũng cần tạo điều kiện tốt, thuận lợi cho giao thông vận tải cũng như trồng cây
gây rừng.
B. TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG, VỐN, KINH PHÍ
Ủy ban hành chính các tỉnh,
thành, khu chịu trách nhiệm trước Bộ và Tổng cục trực tiếp chỉ đạo thực hiện kế
hoạch trồng cây gây rừng trên toàn bộ các công trình thủy lợi trong phạm
vi địa phương mình.
Dựa trên phương châm “ai trồng
cây nấy hưởng lợi” sẽ vận dụng các lực lượng sau đây:
1. Trừ những vị trí đặc
biệt, tất cả những diện còn lại đều giao cho các hợp tác xã nông nghiệp trồng
cây lấy lợi. Lấy lực lượng hợp tác xã làm trung tâm trong việc thực hiện kế hoạch trồng
cây thủy lợi.
2. Những vùng, những đoạn
xét cần thiết và có điều kiện tốt, các Ty Thủy lợi, các ban quản trị nông gian
có thể đứng ra tổ chức trồng dưới hình thức công quản hay kinh doanh sau này
thu lợi cho Nhà nước.
Các khu vực kế cận hay nằm trong
phạm vi các nông, ngư, diêm, lâm trường, xí nghiệp; doanh trại quân đội, giao
cho các đơn vị ấy chịu trách nhiệm trồng và hưởng lợi.
Về phần vốn kinh doanh và kinh
phí:
a) Đối với việc kinh doanh của hợp
tác xã do hợp tác xã tự đầu tư toàn bộ vốn liếng, nhân lực, giống và cây con để
trồng, Chính phủ chỉ giúp đỡ, hướng dẫn về kế hoạch và kỹ thuật là chủ yếu, đồng
thời có thể giúp thêm một phần kinh phí khi xét thật cần thiết. Trường hợp cần
trồng những loại cây đòi hỏi có nhiều vốn như trồng dừa, hợp tác xã sẽ xin vay
vốn của Ngân hàng.
Nhưng một biện pháp tích cực
hơn để giải quyết vốn trồng cây cho hợp tác xã là áp dụng trồng cây xen
canh, lấy ngắn nuôi dài, vừa có thu hoạch trước mắt, vừa có điều kiện chăm sóc,
bảo vệ cây tốt.
b) Đối với cơ quan, bộ đội, công,
nông, lâm trường…chủ yếu là huy động công lao động xã hội chủ nghĩa của cán bộ,
công nhân viên. Khi cần chi tiêu, ngành nào sẽ xin kinh phí của ngành ấy.
c) Về phần trồng cây của các cơ
quan thủy lợi:
- Nếu chỉ trồng chung quanh cơ
quan, trụ sở thì chỉ huy động sự đóng góp có tính chất nghĩa vụ của cán bộ,
công nhân viên, không sử dụng kinh phí.
-Nếu trồng dưới hình thức công
quản như trồng cây nước mặn, trồng tre ven đê, các Ty Thủy lợi dự trù vào kinh
phí đê điều để xin Bộ Thủy lợi cấp (nếu là đê do trung ương quản lý) hoặc tỉnh,
thành cấp (nếu là đê do địa phương quản lý). Phải sử dụng kinh phí thật dè dặt;
tiết kiệm. Nơi nào, việc nào các hợp tác xã; các xã có thể làm được thì nên vận
động các xã; hợp tác xã làm. Chính phủ chỉ giúp thêm một phần phương tiện trong
trường hợp thật cần thiết.
- Nếu trồng dưới hình thức kinh
doanh như trồng dừa, trồng cây ăn quả ở các kênh máng; do các ban quản trị nông
giang dự trù trong kinh phí quản lý nông giang hàng năm.
C. TRÁCH NHIỆM CỦA HAI NGÀNH THỦY LỢI-LÂM NGHIỆP
Để thực hiện kế hoạch “trồng cây
thủy lợi” Ủy ban hành chính các tỉnh, thành; khu sẽ vận động lực lượng của nhiều
ngành, nhiều địa phương. Nhưng về phương diện nghiệp vụ hai ngành Thủy lợi –
Lâm nghiệp sẽ giúp Ủy ban với những trách nhiệm cụ thể như sau:
Ngành thủy lợi :
1. Chủ động giúp Ủy
ban lên quy hoạch trồng cây thủy lợi có sự tham gia trực tiếp của ngành lâm
nghiệp;
2. Đề xuất yêu cầu,
tham gia ý kiến trong các quy hoạch trồng rừng, bảo vệ, khai thác rừng để tạo
điều kiện phục vụ đắc lực cho ngành thủy lợi;
3. Tích cực giúp tỉnh,
thành, khu đẩy mạnh kế hoạch trồng cây thủy lợi và hướng dẫn chu đáo về chuyên
môn để đảm bảo thực hiện quy trình, quy phạm về thủy lợi.
4. Trực tiếp tổ chức trồng ở một
số đê điều, nông giang do tỉnh, thành, khu hay Bộ duyệt.
Ngành lâm nghiệp
1. Hướng dẫn, bồi dưỡng,
đào tạo kỹ thuật viên cho xã, hợp tác xã, cho cán bộ, công nhân ngành thủy lợi
về trồng cây gây rừng;
2. Trực tiếp tham gia
xây dựng quy hoạch trồng cây thủy lợi;
3. Giới thiệu, điều
hòa và cung cấp một phần giống, cây con để trồng trên các công trình thủy lợi;
4. Cùng với Thủy lợi
hướng dẫn các xã, hợp tác xã xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch trồng
cây thủy lợi.
Đó là những trách nhiệm chính của
hai ngành. Trên tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa hai ngành sẽ cùng nhau bàn
những biện pháp phối hợp thường xuyên chặt chẽ như trong việc huấn luyện, xây dựng
quy hoạch, chỉ đạo điểm hình v .v… tránh tư tưởng tách rời hay ỷ lại lẫn nhau
làm thiệt thòi đến công việc chung.
Bộ và Tổng cục cũng như các Ủy
ban sẽ dựa trên những trách nhiệm đã quy định trên để kiểm điểm kết quả hoạt động
của từng ngành.
Vấn đề trồng cây gây rừng trên
các công trình thủy lợi đã trở nên cấp thiết. Nhưng kiểm điểm lại, đến nay ta
làm còn quá ít, nguyên nhân chủ yếu là do chưa có một nhận thức đúng đắn, chưa
được các cấp bộ lãnh đạo quan tâm và bản thân các ngành chuyên môn chưa tích cực
phát huy tác dụng của mình giúp cho Ủy ban lãnh đạo.
Trong hội nghị thủy lợi toàn miền
Bắc tháng 11 năm 1963 vừa qua đã đặc biệt nhấn mạnh đến công tác này.
Bộ và Tổng cục yêu cầu các Ủy
ban nghiên cứu kỹ chủ trương này, có biện pháp chỉ đạo thực hiện kế hoạch trồng
cây thủy lợi thật nhanh chóng, mạnh mẽ và vững chắc để tạo cơ sở tốt cho công
cuộc thủy lợi hóa miền Bắc nước ta, biện pháp hàng đầu để phát triển nông nghiệp.
Từ nay về sau, khi xét thành
tích thi đua thực hiện kế hoạch thủy lợi của các địa phương, đơn vị, hợp tác xã
sẽ không tách rời với thành tích thi đua trồng cây gây rừng trên các công trình
thủy lợi.
Trong khi thi hành có gì mắc mứu,
thường xuyên phản ánh lên Bộ và Tổng cục có biện pháp giải quyết.
BỘ TRƯỞNG
BỘ THỦY LỢI
Hà Kế Tấn
|
TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
Nguyễn Tạo
|
[1]Bảng
hướng dẫn các trồng cây không đăng công báo
|