BỘ TÀI CHÍNH – BỘ LAO ĐỘNG VÀ TỔNG
CÔNG ĐOÀN
******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do - Hạnh phúc
******
|
Số : 128-TT/LB
|
Hà Nội, ngày 24 tháng 07 năm 1968
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
HƯỚNG DẪN VIỆC THI HÀNH CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT CỦA
CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC ĐỐI VỚI TÀI SẢN CỦA NHÀ NƯỚC
Kính
gửi:
|
Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ
quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, Các Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh.
|
Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 49-CP ngày 09-4-1968 về chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân, viên
chức đối với tài sản của Nhà nước. Căn cứ vào điều 21 của chế độ nói trên, Liên
bộ Tài chính – Lao động và Tổng công đoàn giải thích rõ thêm một số điểm dưới
đây:
I. Ý NGHĨA, MỤC ĐÍCH, PHƯƠNG CHÂM
CỦA VIỆC BAN HÀNH CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT.
Sau các đợt vận động cải tiến quản
lý xí nghiệp, nhất là sau cuộc vận động 3 xây 3 chống, việc quản lý tài sản của
Nhà nước có những tiến bộ nhất định; ý thức bảo vệ của công trong công nhân,
viên chức, bước đầu đã được nâng lên, các vụ làm hư hỏng, mất mát, tài sản của
Nhà nước có giảm bớt một phần. Song từ khi cả nước có chiến tranh, tình hình
tài sản của Nhà nước bị tổn thất lại tăng lên, do nguyên nhân khách quan cũng
có, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, việc giáo dục công nhân viên chức
về ý thức trách nhiệm, ý thức làm chủ trong việc bảo vệ tài sản của Nhà nước
chưa đầy đủ, công tác quản lý tài sản không chặt chẽ, việc chấp hành chế độ
thưởng phạt không nghiêm minh, kịp thời…
Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ số
59-CP ngày 10-5-1967 về bảo vệ tài sản, thực hành tiết kiệm đã ghi : “Chúng ta
phải ra sức bảo vệ thành quả của sản xuất, bảo vệ tài sản và thực hành tiết
kiệm, sử dụng hợp lý nhất sức người, sức của của Nhà nước và của nhân dân để
đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu, đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của toàn dân
ta đến thắng lợi hoàn toàn”. Nghị định số 195-CP ngày 31-12-1964 ban hành điều
lệ về kỷ luật lao động đã quy định rõ 5 điều kỷ luật lao động, trong đó có việc
bảo vệ của công và đề ra nguyên tắc : “những người vì thiếu tinh thần trách
nhiệm hoặc vi phạm kỷ luật lao động mà gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước
thì phải bồi thường sự thiệt hại ấy cho công quỹ”.
Một số ngành cũng đã ra những văn
bản có tính chất điều lệ chi tiết, cụ thể, về chế độ bồi thường để áp dụng
riêng trong ngành. Nhưng do thiếu một văn bản pháp quy đề ra những nguyên tắc
chung của Nhà nước, làm cơ sở cho các ngành xây dựng những điều lệ cụ thể của
từng ngành nên những điều lệ mà các ngành đã ban hành không được thống nhất về
nội dung; từ cơ sở trách nhiệm đến điều kiện được miễn giảm, mức độ bồi thường,
thủ tục xử lý… mỗi ngành quy định một khác, nơi quá rộng rãi, nơi quá chặt chẽ.
Nói chung các ngành chỉ mới quy định việc bồi thường vì thiếu hụt công quỹ, mất
mát tài sản, chưa đề cập một cách đầy đủ đến toàn bộ trách nhiệm vật chất của
công nhân, viên chức trong việc bảo vệ tài sản của Nhà nước, cụ thể chưa quy
định chế độ bồi thường trong trường hợp làm hư hỏng tài sản của Nhà nước.
Đi đối với việc thi hành chế độ bồi
thường, nhiều ngành chưa chú ý đến việc tăng cường giáo dục chính trị, tư
tưởng, đề cao ý thức làm chủ và ý thức trách nhiệm; mặt khác cũng chưa kịp thời
giải quyết một số vấn đề đặt ra do việc thi hành chế độ bồi thường như xác định
rõ chế độ trách nhiệm, kiện toàn chế độ quản lý tài sản, tổ chức việc giám định
kỹ thuật, nâng cao trình độ thành thạo về nghề cho công nhân v .v…
Về trách nhiệm bồi thường cũng chưa
phân biệt rõ ràng các trường hợp cố ý gây thiệt hại hay tham ô, biển thủ là
những vi phạm pháp thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án, với các trường hợp không
cố ý, chỉ vì thiếu tinh thần trách nhiệm hay vi phạm kỷ luật lao động trong khi
làm nhiệm vụ sản xuất, công tác, mà để xẩy ra thiệt hại, phải xử lý theo tinh
thần giải quyết trong quan hệ lao động. Một số ngành lại áp dụng máy móc nguyên
tắc: cứ xẩy ra thiệt hại, mất mát tài sản của Nhà nước là người phụ trách bảo
quản phải bồi thường đủ số và bồi thường ngày, nên có trường hợp xử lý chưa
được thỏa đáng, làm cho người được giao nhiệm vụ bảo quản, sử dụng tài sản của
Nhà nước lo ngại về trách nhiệm bồi thường, kém phấn khởi trong công tác.
Về mặt thi hành thì nói chung là
lỏng lẻo. Khi xảy ra thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, nhiều ngành thường chỉ
mới chú ý mặt thi hành kỷ luật hành chính đối với người phạm lỗi, chưa quan tâm
đúng mức đến mặt trách nhiệm bồi thường, có khi bắt bồi thường cho Nhà nước
nhưng không theo dõi, đôn đốc việc thanh toán khoản bồi thường đã định. Có
ngành cũng không theo dõi chặt chẽ việc bảo vệ tài sản nên không nắm được tình
hình. Các đơn vị cơ sở giải quyết đúng sai thế nào, cấp trên thường không biết
để đôn đốc, nhắc nhở, uốn nắn, kịp thời rút kinh nghiệm đề ra những biện pháp
cần thiết để ngăn chặn việc xẩy ra những sự việc tương tự về sau.
Để góp phần chấn chỉnh tình trạng
trên đây, thúc đẩy việc thực hiện cuộc vận động bảo vệ tài sản, thực hành tiết
kiệm, Hội đồng Chính phủ đã ban hành chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân,
viên chức đối với tài sản của Nhà nước, làm cơ sở cho các ngành, các địa
phương nghiên cứu vận dụng cho thống nhất và sát với hoàn cảnh cụ thể của từng
ngành, từng địa phương.
Tinh thần cơ bản của bản chế độ
trách nhiệm vật chất là đề cao trách nhiệm quản lý vào bảo vệ tài sản của Nhà
nước đồng thời hết sức coi trọng chính sách cán bộ Đảng và Chính phủ. Trên cơ
sở tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đề cao ý thức trách nhiệm, ý thức
làm chủ và kiện toàn chế độ quản lý, một mặt phải kịp thời biểu dương khen
thưởng những đơn vị và cá nhân có thành tích quản lý, bảo vệ tài sản Nhà nước,
mặt khác phải xác định rõ trách nhiệm vật chất của công nhân, viên chức, tức là
trách nhiệm bồi thường trong trường hợp để xẩy ra hư hỏng, mất mát tài sản của
Nhà nước làm cho công nhân, viên chức quan tâm một cách thiết thực hơn đến việc
quản lý, bảo vệ tài sản của Nhà nước trong mọi trường hợp. Mục đích bồi thường
là nhằm tăng cường giáo dục công nhân, viên chức nâng cao tinh thần làm chủ tập
thể, tăng cường ý thức quản lý, ý thức trách nhiệm đồng thời đền bù lại một mức
nhất định sự thiệt hại đã gây ra cho tài sản của Nhà nước.
Việc xử lý phải dựa trên đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, nói chung có chiếu cố đến tình hình đời sống
của công nhân, viên chức. Xử lý nghiêm minh những vụ vi phạm chính sách, chế
độ, kỷ luật cũng chính là để giáo dục. Trong từng trường hợp cụ thể thì có phân
biệt đối xử căn cứ vào hoàn cảnh xẩy ra sự việc và tinh thần, thái độ công tác
của người phạm lỗi.
II. NHỮNG ĐIỂM CHÍNH CỦA NỘI DUNG
CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT.
1. Phạm vi thi hành của chế độ.
1. Chế độ trách nhiệm vật chất này
áp dụng cho công nhân, viên chức Nhà nước về những vụ thiệt hại xẩy ra do vi
phạm kỷ luật lao động hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm trong quá trình sản
xuất, công tác.
Như vậy những vụ tham ô, biển thủ
của công, phá hoại tài sản của Nhà nước và nói chung là các hành vi cố ý gây
thiệt hại bằng cách này hay cách khác cho tài sản của Nhà nước, đều không thuộc
phạm vi xử lý theo chế độ này, mà thuộc thẩm quyền của các cơ quan tư pháp. Đối
với những vụ tham ô lặt vặt mà cơ quan tư pháp xét chưa đến mức đáng truy tố
trước toà án, giao về cơ quan, xí nghiệp xử lý thì khi xử lý, cơ quan, xí
nghiệp cũng không áp dụng những điều khoản của chế độ này.
Mặt khác, những vụ gây ra thiệt hại
không phải trong trường hợp thi hành nhiệm vụ lao động hay không phải trong
trường hợp được quyền sử dụng tài sản, cũng không thuộc phạm vi xử lý theo chế
độ này vì đó là những việc thuộc về trách nhiệm dân sự.
Đối với những người làm ra hàng
hỏng, hàng xấu hoặc công trình sai phạm kỹ thuật, cũng không thi hành chế độ
này, mà phải bồi thường theo Thông tư số 97-TTg ngày 29-9-1962 của Thủ tướng
Chính phủ.
Cần chú ý là đối với những trường
hợp do thiếu tinh thần trách nhiệm làm thiệt hại nghiêm trọng tài sản của Nhà
nước đến mức phải truy tố trước tòa án theo Sắc lệnh số 267-SL ngày 15-6-1956
thì việc bồi thường do các cơ quan tư pháp quyết định, không thi hành theo chế
độ này.
Theo điều 5 của chế độ trách nhiệm
vật chất, ngoài việc bồi thường sự thiệt hại cho công quỹ, người phạm lỗi còn
có thể, tùy tính chất của sự việc và mức độ lỗi, bị thi hành kỷ luật theo một
trong bốn hình thức kỷ luật quy định trong điều lệ về kỷ luật lao động (khiển
trách; cảnh cáo; hạ tầng công tác, hạ cấp bậc kỹ thuật; hay buộc thôi việc).
Vấn đề này do Hội đồng kỷ luật xét và đề nghị theo như quy định trong Thông tư
số 13-TT/LB ngày 30-8-1966 của Liên bộ Lao động - Nội vụ hướng dẫn việc thi
hành điều lệ về kỷ luật lao động.
2. Đối tượng thi hành.
Theo điều 1, đối tượng thi hành chế
độ này là những công nhân, viên chức làm việc lâu dài hay tạm thời (trong biên
chế hay ngoài biên chế Nhà nước, thuộc lực lượng lao động thường xuyên hay
không thường xuyên), dù ở cương vị nào (là cán bộ lãnh đạo hay là nhân viên,
công nhân) trong các cơ quan, xí nghiệp từ cấp huyện trở lên (bao gồm các xí
nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh, công trường, nông trường, lâm trường,
cửa hàng, bệnh viện, trường học viện thí nghiệm, các cơ quan sự nghiệp khác và
các cơ quan quản lý Nhà nước)
3. Việc xác định lỗi (theo điều 7,
8, 9)
Việc xác định lỗi là vấn đề quan
trọng vì lỗi là cơ sở để quy trách nhiệm bồi thường.
Chế độ trách nhiệm vật chất thi hành
trên nguyên tắc: có lỗi gây ra thiệt hại mới phải chịu trách nhiệm bồi thường,
nếu không có lỗi thì không phải bồi thường. Vì vậy khi xẩy ra sự việc thiệt
hại, cơ quan, xí nghiệp phải căn cứ vào những nguyên tắc, chế độ trách nhiệm
quản lý, bảo vệ tài sản đã được quy định mà điều tra quy trách nhiệm quản lý,
bảo vệ tài sản đã được quy định mà điều tra quy trách nhiệm, kết luận về lỗi và
mức độ lỗi của từng người cho chính xác. Nếu thiệt hại do lỗi của nhiều người
gây nên thì tất cả những người có lỗi, kể cả cán bộ phụ trách cơ quan, xí
nghiệp, đều có trách nhiệm bồi thường tùy theo mức độ lỗi của từng người.
Để việc xác định lỗi và mức độ lỗi
được thỏa đáng, trong khi điều tra phân tích cần chú ý đến nhiều mặt như hoàn
cản xẩy ra thiệt hại, những khó khăn mà người công nhân, viên chức không thể
khắc phục được, trách nhiệm không rõ ràng, trình độ kỹ thuật kém, nên không
lường trước được để có biện pháp đề phòng v .v… Công việc điều tra, xác định
trách nhiệm phải được tiến hành chu đáo theo đường lối quần chúng, với sự tham
gia của công đoàn cơ sở.
Ngoài ra nếu do nhiệt tình lao động
(sản xuất hay công tác) và đã chú ý đảm bảo về mặt kỹ thuật, mà vô ý để xẩy
thiệt hại thì không coi là phạm lỗi và không phải bồi thường, nhưng cần rút
kinh nghiệm để tránh những sự việc tương tự lại xẩy ra.
Điều 9 quy định: “nếu thiệt hại do
điều kiện khách quan không thể lường trước được hoặc vượt quá sức khắc phục của
con người như bão to, lụt lớn, địch bắn phá, v.v… mà người phụ trách công việc
đã làm hết sức mình để đề phòng hoặc hạn chế thiệt hại thì được miễn trách
nhiệm bồi thường; nếu không làm hết trách nhiệm và khả năng mà để xẩy ra thiệt
hại thì vẫn có trách nhiệm bồi thường”.
Thí dụ: Một thủ kho được tin có bão đã tự
mình đi kiểm tra hệ thống kho và đã tìm mọi cách, mọi phương tiện để che chống
và trong khi có bão đã tích cực chống đỡ với bão, các việc trên đều được nhân
dân và các người chung quanh biết rõ và công nhận. Người thủ kho ấy không phải
bồi thường về những sự thiệt hại do bão gây nên vì có tinh thần trách nhiệm bảo
vệ tài sản và đã đem hết khả năng của mình để hạn chế thiệt hại.
Trái lại, một thủ kho khác cũng được
tin sắp có bão, không những không chú ý kiểm soát lại kho tàng mà còn bỏ kho đi
nơi khác, khi có bão cũng không tích cực bảo vệ kho nên bão đã gây ra một số
thiệt hại về hàng hóa để trong kho. Trong trường hợp này người thủ kho có trách
nhiệm bồi thường về những thiệt hại do bão gây ra, vì đã không làm hết trách
nhiệm và khả năng của mình để đề phòng và hạn chế thiệt hại.
4. Định mức bồi thường (theo điều
10, 11, 12):
Một điều cần nắm vững là khi đánh
giá thiệt hại để định mức bồi thường chỉ căn cứ vào những thiệt hại trực tiếp
gây ra cho tài sản mà người phạm lỗi có trách nhiệm giữ gìn, sử dụng, chứ không
tính đến những thiệt hại gián tiếp là hậu quả của việc tài sản bị hư hỏng, mất
mát gây ra.
Thí dụ: Một công nhân lái xe chở hành khách
vì vượt ẩu đã đâm hỏng xe, chỉ phải bồi thường về tiền sửa xe, chứ không phải
bồi thường về số tiền thất thu (tiền bán vé hành khách) trong thời gian xe nằm
ở xưởng sửa chữa.
Để xác định rõ lỗi và mức độ lỗi –
cơ sở của việc định mức bồi thường – ngoài việc điều tra, sưu tầm đầy đủ tài
liệu có liên quan đến sự việc xẩy ra, đến hoàn cảnh gây ra thiệt hại, cần phải
xét đến tinh thần, thái độ công tác và ý thức bảo vệ của công thường ngày của
người phạm lỗi. Cùng một sự việc xẩy ra, nếu người phạm lỗi từ trước vẫn có
tinh thần thái độ công tác tốt và có ý thức trách nhiệm cao, không bị kỷ luật
bao giờ, lần này chỉ vì sơ suất mà để xẩy ra thiệt hại, thì được chiếu cố khi
định mức bồi thường.
Khi định mức bồi thường, có phân
biệt trường hợp làm hư hỏng tài sản với trường hợp làm mất tài sản. Nếu làm hư
hỏng tài sản của Nhà nước, hiện vật không bị tham ô, biển thủ, thì tùy tình
hình cụ thể, phải bồi thường cả hay một phần sự thiệt hai, nhưng mức tối đa
không quá 3 tháng lương và phụ cấp lương của người phạm lỗi.
Thí dụ: Một công nhân, lương chính và phụ
cấp lương là 60đ, đã làm hỏng một cái máy phải sửa chữa hết 250đ thì mức bồi
thường tối đa là: 60đ x 3 = 180đ. Trong phạm vi mức tối đa ấy, cơ quan, xí
nghiệp sẽ quyết định mức bồi thường cụ thể.
Chú ý: Phụ cấp lương chỉ bao gồm có một
loại phụ cấp là phụ cấp khu vực. Khi tính mức bồi thường, không kể các loại phụ
cấp hoặc trợ cấp khác như phụ cấp độc hại, hao mòn sức khỏe, thương tật, kỹ
thuật, trợ cấp đông con, trợ cấp sơ tán v .v…
Nếu để mất tài sản của Nhà nước thì
phải bồi thường toàn bộ số tài sản mất như vẫn thi hành từ trước tới nay, nhưng
cái mới là cơ quan cấp trên có thể quyết định việc bồi thường thấp hơn nếu có
đầy đủ lý do để xác định là tài sản bị mất không phải do tham ô, biển thủ tức
là không có nghi vấn tham ô, biển thủ. Đề nghị này phải do thủ trưởng cơ quan,
xí nghiệp và công đoàn cơ sở bàn bạc thống nhất, sau khi lấy ý kiến của đông
đảo quần chúng trong đơn vị.
Sở dĩ phải giữ nguyên tắc bồi thường
toàn bộ trong trường hợp mất tài sản là để tránh sơ hở, ngăn chặn mọi tính
toán, lợi dụng chế độ, nhưng mặt khác lại cần tránh việc bắt bồi thường toàn bộ
một cách máy móc, không hợp tình, không hợp lý. Vì vậy mới đề ra trường hợp có
thể bồi thường với mức thấp hơn, nếu có lý do chính đáng, được cơ quan cấp trên
xét và quyết định.
Trong trường hợp tài sản bị hao hụt
(như thóc, gạo, nước mắm, đường, muối, xăng dầu v.v… ) cần phải điều tra, nghiên
cứu, phân tích kỹ lưỡng nguyên nhân hao hụt, để thấy rõ phần hao hụt nào là
chính đáng (hao hụt tự nhiên về bảo quản, xuất nhập hay vận chuyển nằm trong
định mức đã được quy định chính thức), phần hao hụt nào do thiếu trách nhiệm
của người phụ trách giữ kho, xuất nhập hay vận chuyển hàng hóa, vật tư. Ngay
trong trường hợp tỷ lệ hao hụt trong phạm vi định mức đã quy định, cũng cần chú
ý xem có nghi vấn tham ô không. Chỉ trong trường hợp hao hụt, vượt định mức, do
lỗi thiếu tinh thần trách nhiệm, hay vi phạm kỷ luật lao động của người phụ
trách, thì mới phải bồi thường.
5. Cách thực hiện bồi thường (theo
điều 13).
Khi định mức trừ vào lương hàng
tháng, phải chú ý đến hoàn cảnh kinh tế, mức thu nhập, tình trạng gia đình của
người phạm lỗi. Nói chung cách thực hiện bồi thường là trừ dần vào lương hàng
tháng, chứ không bắt buộc người phạm lỗi phải tìm mọi cách để trả hết cả ngay
một lúc, trừ trường hợp thiệt hại không lớn và người phạm lỗi tự nguyện trả cả
một lần. Số tiền trừ hàng tháng phải tính toán một cách hợp lý, sát với hoàn
cảnh kinh tế của người phạm lỗi, nhưng không dưới 10% và cũng không quá 30%
tổng số lương và phụ cấp khu vực (nếu có) hàng tháng. Nếu người phạm lỗi còn nợ
Nhà nước những khoản tiền khác (thí dụ: tiền vay mua chịu xe đạp, tiền ứng phụ
cấp đi đường) thì tổng số tiền phải trừ (bao gồm tiền bồi thường và các khoản
tiền nợ khác) cũng không được quá 30% tổng số lương và phụ cấp khu vực của
đương sự.
Thí dụ 1: Một công nhân X, lương và phụ cấp
khu vực một tháng là 58đ, đánh hỏng một cái máy phải sửa chữa hết 600đ và phải
bồi thường số tiền bằng gần 3 tháng lương là 170đ. Số tiền bồi thường trừ dần
vào lương anh X mỗi tháng là 17đ00 (gần 30% lương hàng tháng).
Nhưng vì anh X còn phải trả tiền mua
chịu xe đạp mỗi tháng là 10đ (còn 3 tháng nữa thì hết nợ) và phải hoàn tiền tạm
ứng phụ cấp đi đường là 5đ (trả một lần), nên số tiền bồi thường trừ vào lương
tháng của anh X như sau (chú ý: bắt đầu trừ lương từ tháng sau khi có quyết
định bồi thường):
|
Mức bồi thường hàng tháng
|
Trừ các khoản nợ khác
|
Số tiền bồi thường còn phải nộp
|
Tháng thứ 1
|
17đ
|
_ 10đ tiền mua chịu xe đạp, 5đ
tiền tạm ứng phụ cấp đi đường
|
2 đ
|
Tháng thứ 2
|
17đ
|
_ 10đ tiền mua chịu xe đạp
|
7 đ
|
Tháng thứ 3
|
17đ
|
_ 10đ tiền mua chịu xe đạp
|
7 đ
|
Tháng thứ 4
|
17đ
|
0
|
17 đ
|
v.v…
|
|
|
|
Thí dụ 2: Một nhân viên làm việc ở một viện
nghiên cứu, lương và phụ cấp khu vực một tháng là 60đ, đánh hỏng một cái máy
phải sửa chữa hết 500đ và phải bồi thường số tiền bằng 3 tháng lương là 180. Vì
anh ấy đông con và thu nhập bình quân gia đình thấp nên số tiền bồi thường trừ
vào lương hàng tháng chỉ định là 10% (tức là 6đ một tháng).
Một khi đã có quyết định bồi thường,
cần phải theo dõi và đôn đốc thực hiện việc trừ lương cho đều đặn và đầy đủ,
nhất là trong trường hợp người có trách nhiệm bồi thường chuyển đi cơ quan khác
(trong giấy thôi trả lương cấp cho người đó, phải ghi rõ tổng số tiền phải bồi
thường, số tiền đã trừ vào lương đến ngày cuối cùng ở cơ quan cũ, số tiền cơ
quan mới sẽ phải tiếp tục trừ vào lương cho đủ số tiền bồi thường và số tiền
phải trừ vào lương mỗi tháng ở cơ quan mới). Xem cách hạch toán cụ thể ở mục 9.
Trường hợp người phạm lỗi thôi việc,
thì số tiền bồi thường chưa trả hết coi là một món nợ đối với công quỹ và sẽ
thu hồi theo đúng chế độ đã quy định đối với các khoản nợ công quỹ (sẽ có hướng
dẫn riêng).
6. Việc giảm, miễn, hoàn bồi thường.
Cần phân biệt các trường hợp thông
thường với các trường hợp đặc biệt.
Có hai trường hợp thông thường là:
a) Trong thời gian thực hiện việc
bồi thường nếu người phạm lỗi gặp khó khăn đột xuất trong đời sống như bị thiên
thai, địch họa, ốm đau v.v… thì có thể tạm thời được hoãn việc bồi thường cho
đến khi lại có khả năng tiếp tục nộp đều hàng tháng.
b) Nếu đã trả được từ 50% số tiền
bồi thường trở lên và tích cực làm việc, có thành tích trong công tác hay sản
xuất, thì tùy mức độ thành tích, có thể được giảm hay miễn số tiền còn lại.
Có hai trường hợp đặc biệt là:
a) Gặp khó khăn đột xuất trong đời
sống, lại có thành tích rất xuất sắc trong công tác, có thái độ gương mẫu trong
lao động, việc chiếu cố được quần chúng đồng tình, thì thủ trưởng đơn vị cũng
có thể đề nghị giảm hay miễn mức bồi thường còn lại.
b) Tuy chưa trả được 50% số tiền bồi
thường nhưng có thành tích rất xuất sắc trong công tác hay sản xuất thì cũng có
thể được giảm hoặc miễn số tiền còn lại.
Để việc thi hành chính sách miễn,
giảm được thận trong, không tùy tiện, tràn lan, mọi trường hợp miễn hoặc giảm
đều do thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp đề nghị sau khi bàn bạc thống nhất với ban
chấp hành công đoàn cơ sở và do cơ quan cấp trên quyết định sau khi bàn bạc với
cơ quan tài chính cùng cấp (sở, ty tài chính hay Bộ Tài chính). Cơ quan cấp
trên phải tìm hiểu đầy đủ tình hình, nghiên cứu mọi mặt trước khi quyết định.
Cần nắm vững ý nghĩa và điều kiện
của việc miễn, giảm trên đây để thực hiện cho đúng, tránh miễn, giảm tràn lan,
xóa nợ một cách tùy tiện, làm mất tính chất nghiêm minh của chế độ.
7. Thủ tục xử lý.
a) Thẩm quyền xử lý.
Về thẩm quyền xử lý thì tinh thần
của bản chế độ là trừ những trường hợp thuộc quyền xét xử của Tòa án, nếu trên
thực tế có những việc chưa rõ thì hỏi ý kiến Viện kiểm sát nhân dân, các thiệt
hại thông thường xẩy ra trong quá trình lao động đều do xí nghiệp, cơ quan, là
tổ chức chịu trách nhiệm trước Nhà nước về toàn bộ tài sản giao cho đơn vị quản
lý, giải quyết việc bồi thường.
Một điểm rất quan trọng cần thực
hiện sớm là căn cứ vào điều 15 của bản chế độ, Ủy ban hành chính, tỉnh, thành
phố và Bộ chủ quản phải quy định rõ thẩm quyền xử lý của từng loại xí nghiệp,
cơ quan thuộc địa phương và thuộc ngành mình. Xác định cho đúng và hợp lý thẩm
quyền xử lý của từng cấp là một việc rất quan trọng vì nếu tập trung lên trên
nhiều thì công việc sẽ ùn lại, cấp trên không có khả năng giải quyết kịp thời
và thật sát với từng sự việc, từng trường hợp. Nếu giao quyền hạn không đúng
mức cho cấp dưới, thì dễ xảy ra tình trạng xử lý tùy tiện, cảm tình, nể nang
hay khắt khe, máy móc, không đúng với tinh thần của chế độ.
Vì thế cho nên Ủy ban hành chính,
thành phố (đối với các đơn vị thuộc địa phương) và Bộ chủ quản (đối với các đơn
vị thuộc trung ương) phải quy định rõ:
- đơn vị nào có thẩm quyền xử lý ?
- mức xử lý đến đâu (căn cứ vào mức
độ thiệt hại) ?
- cấp trên trực tiếp có quyền thẩm
tra lại việc xử lý ở cấp dưới, bãi bỏ hay sửa đổi quyết định của cấp dưới, xét
các trường hợp miễn giảm, xét các vụ khiếu nại là cấp nào?
Những quy định này phải được Bộ Tài
chính, Bộ Lao động và Tổng công đoàn thỏa thuận trước khi ban hành.
b) Hội đồng kỷ luật
- Nếu sự việc đã rõ ràng, thiệt hại
không lớn, người phạm lỗi nhận trách nhiệm bồi thường thì không cần đưa ra Hội
đồng kỷ luật mà thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp có thể quyết định mức bồi thường
sau khi bàn bạc với ban chấp hành công đoàn cơ sở và kế toán trưởng của đơn vị.
- Nếu sự việc phức tạp, thiệt hại
tương đối lớn, thì thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp phải đưa ra Hội đồng kỷ luật
xét và bàn bạc với kế toán trưởng trước khi quyết định việc bồi thường.
Thành phần Hội đồng kỷ luật gồm:
- Giám đốc xí nghiệp hay thủ trưởng
cơ quan chủ trì như
đã quy định trong điều 9
- Một đại diện của ban chấp hành
công đoàn cơ sở của
điều lệ về kỷ luật lao động
- Một đại biểu công nhân hay viên
chức tại bộ phận (nghị
định Hội đồng Chính phủ
làm việc của đương sự đề cử
số 195-CP ngày
31-12-1964
Về những vấn đề có liên quan đến kỹ thuật, Hội đồng kỷ luật
có thể mời người có thẩm quyền về kỹ thuật đến tham gia ý kiến.
Ý kiến của Hội đồng kỷ luật là ý
kiến đề nghị không phải là ý kiến quyết định, nhưng cần được tôn trọng. Người
phạm lỗi được mời đến phiên họp của Hội đồng kỷ luật để trình bày ý kiến của
mình đối với nhận xét và kết luận của Hội đồng kỷ luật.
Trước khi thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp
quyết định việc bồi thường cần lấy ý kiến của kế toán trưởng vì kế toán trưởng
là người có nhiệm vụ tổ chức thực hiện đồng thời kiểm tra việc chấp hành các
chế độ, thể lệ kinh tế tài chính trong đơn vị, có trách nhiệm “kịp thời lập
biên bản về các tài sản bị mất cắp hay biển thủ và các trường hợp tổn thất tài
sản khác và kịp thời đề nghị với thủ trưởng đơn vị các biện pháp giải quyết”
(điểm 10 điều 10 Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước).
Nếu người trực tiếp gây ra thiệt hại
là thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp, bất kỳ ở cấp nào, thì cách xử lý và thủ tục
cũng tiến hành như đối với mọi người khác. Thủ trưởng do thiếu tinh thần trách
nhiệm mà chỉ đạo công tác quan liêu để xẩy ra thiệt hại đến tài sản của Nhà
nước, bất kỳ loại tài sản gì, thì cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Thí dụ 1: Một giám đốc công trường huy động ồ
ạt công nhân đến công trường, nhưng vì không chuẩn bị đủ dụng cụ để làm việc,
nên một số công nhân không có việc làm (lãng phí lao động) nhưng vẫn phải trả
lương, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước.
Thí dụ 2: Một xí nghiệp có nhiều gỗ, nứa, lá,
để ở một địa điểm để bị nước lũ cuốn đi mất. Công nhân của xí nghiệp và nhân
dân địa phương đã tích cực góp ý kiến với giám đốc xí nghiệp là phải bốc dỡ đem
đi nơi khác, nhưng giám đốc xí nghiệp không chịu tiếp thu ý kiến đề nghị, không
có những biện pháp bảo vệ cần thiết để cho nước lũ làm trôi mất vật liệu.
Thí dụ 3: Một trưởng ty dùng xe mô tô công đi
công tác, vượt ẩu và đâm hỏng xe phải đem đi sửa chữa.
Trong ba trường hợp trên đây, giám
đốc hay trưởng ty phải chịu trách nhiệm và cấp trên có thể quyết định bắt bồi
thường.
Hồ sơ về các vụ thiệt hại do thủ
trưởng cơ quan, xí nghiệp gây nên phải gửi lên cấp trên của đơn vị để xét quyết
định mức bồi thường. Trước khi quyết định, thủ trưởng cơ quan cấp trên phải đưa
ra Hội đồng kỷ luật xét và bàn bạc với cơ quan tài chính cùng cấp.
c) Thẩm tra lại việc xử lý bồi
thường ở cấp dưới và xét các vụ khiếu nại.
Cơ quan cấp trên có trách nhiệm thẩm
tra lại các việc xử lý bồi thường của cấp dưới để đảm bảo việc xử lý được đúng
với chủ trương, chính sách của Nhà nước. Nếu xét thấy cấp dưới đã xử lý không
thỏa đáng, thủ trưởng cơ quan cấp trên, sau khi lấy ý kiến của Hội đồng kỷ luật
ở cấp mình sẽ bàn bạc với cơ quan tài chính cùng cấp, có quyền bác bỏ hay sửa
đổi quyết định bồi thường của cấp dưới. Do đó mức bồi thường phải định lại.
- Nếu mức bồi thường mới thấp hơn
mức bồi thường cũ: người phạm lỗi được lĩnh lại số tiền đã nộp quá.
- Nếu mức bồi thường mới cao hơn mức
bồi thường cũ: người phạm lỗi phải bồi thường theo mức mới.
Trường hợp có những vụ khiếu nại về
việc bồi thường thì cấp trên của cấp đã ra quyết định bồi thường phải xét lại
và trả lời kịp thời cho đương sự.
d) Trường hợp phát hiện sự việc mới
sau khi đã quyết định mức bồi thường.
Nếu sau khi đã quyết định việc bồi
thường mà phát hiện những sự việc mới, làm thay đổi nhận định trước về lỗi và
mức độ lỗi của đương sự thì cơ quan có thẩm quyền xử lý phải xét và quyết định
lại mức bồi thường. Việc thực hiện bồi thường theo mức mới cũng giải quyết như
trường hợp thẩm tra lại việc xử lý đã nêu ở trên.
8. Việc khen thưởng.
Muốn cho chế độ trách nhiệm vật chất
phát huy được đầy đủ tác dụng thiết thực, góp phần thúc đẩy việc tăng cường bảo
vệ tài sản, thực hành tiết kiệm, cần hết sức coi trọng công tác giáo dục chính
trị tư tưởng và đi đôi với việc thực hiện chế độ trách nhiệm bồi thường vật
chất, cần kịp thời khen thưởng xứng đáng những người có thành tích trong việc
tiết kiệm, bảo vệ tài sản của Nhà nước căn cứ vào chế độ khen thưởng chung. Tùy
thành tích nhiều hay ít mà định hình thức khen thưởng từ thấp đến cao: biểu
dương, cấp giấy khen, bằng khen; đề nghị Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước cấp
bằng khen; nếu có thành tích xuất sắc thì đề nghị Chính phủ tặng huân chương.
Đối với những người chẳng những bảo
vệ tài sản tốt mà còn có sáng kiến hợp lý hóa sản xuất hoặc cải tiến nghiệp vụ
công tác, đem lại kết quả là tận dụng được công suất máy móc và thiết bị, tận
dụng được nguyên nhiên vật liệu, phục hồi máy móc và thiết bị cũ, v.v… thì cần
chú ý vận dụng điều lệ khen thưởng sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuất, cải tiến nghiệp vụ công tác ban hành kèm theo Nghị định số 20-CP ngày
08-2-1965 của Hội đồng Chính phủ.
9. Vấn đề hạch toán số chi về thiệt
hại tài sản và số thu về bồi thường.
1. Đối với các xí nghiệp, công
trường, nôn g trường v.v…
a) Cách hạch toán số chi về thiệt
hại:
Nói chung số chi về thiệt hại tài
sản (mất mát hoặc hư hỏng) ghi theo chế độ kế toán hiện hành.
Cụ thể:
- Trường hợp mất tiền, vật liệu,
hàng hóa: ghi vào tài khoản “lỗ bất thường” (190);
- Trường hợp mất tài sản cố định
hoặc tài sản cố định hỏng hoàn toàn (phải thanh toán): ghi giảm vốn tài sản cố
định (125);
- Chi về sửa chữa lớn: dùng nguồn
vốn sửa chữa lớn để ghi vào tài khoản 011;
- Chi về sửa chữa nhỏ: dùng nguồn
vốn lưu động (kinh phí sửa chữa thường xuyên), và tính vào giá thành (đối với
xí nghiệp công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải…) hoặc tính vào phí
lưu thông (đối với xí nghiệp thương nghiệp).
b) Cách hạch toán số thu về tiền bồi
thường:
- Trường hợp mất tiền, vật liệu,
hàng hóa ghi vào tài khoản “lãi linh tinh” (tài khoản 190);
- Trường hợp mất tài sản cố định
hoặc tài sản cố định hỏng hoàn toàn: ghi thu tăng thêm về biến giá tài sản cố
định;
- Trường hợp máy móc, thiết bị hư
hỏng nặng phải sửa chữa lớn: ghi giảm chi về sửa chữa lớn;
- Trường hợp sửa chữa nhỏ: ghi giảm
giá thành hoặc giảm phí lưu thông (tức là giảm chi về sửa chữa thường xuyên).
Chú thích:
Số tiền bồi thường đã được xác định
ghi vào tài khoản 101 “các khoản phải thu và phải trả” để theo dõi việc trừ dần
vào lương người phạm lỗi.
Số tiền bồi thường được miễn, giảm
ghi vào tài khoản “lỗ bất thường” (190).
2. Riêng đối với cơ quan hành chính
sự nghiệp:
Số chi về sửa chữa máy móc, đồ đạc,
dụng cụ tính vào dự toán chi của đơn vị (chi dự toán).
Số thu về tiền bồi thường sẽ nộp
ngân sách Nhà nước (khoản thu linh tinh).
Đối với tài sản bị mất hoặc hư hỏng
hẳn không dùng được nữa, phải ghi chú thích rõ trong số mục lục tài sản.
Trường hợp công nhân, viên chức phạm
lỗi chuyển sang xí nghiệp, cơ quan mới:
- Đối với xí nghiệp cũ: số tiền bồi
thường chưa thu hết coi là “lỗ bất thường” (tài khoản 190).
- Đối với xí nghiệp mới: số tiền bồi
thường thu được coi là "lãi linh tinh" (tài khoản 190).
- Đối với cơ quan hành chính sự
nghiệp mới: số tiền bồi thường thu được sẽ nộp vào ngân sách Nhà nước (khoản
thu linh tinh).
III. NHIỆM VỤ CỦA CÁC NGÀNH, CÁC ĐƠN
VỊ
Như đã quy định trong bản chế độ, muốn làm tốt việc bảo vệ
tài sản thì trước hết phải rất coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
làm cho công nhân, viên chức có một nhận thức toàn diện và sâu sắc, thấy rõ ý
nghĩa to lớn và nội dung cách mạng của vấn đề bảo vệ tài sản Nhà nước, coi đó
là quyền lợi thiết thân và nghĩa vụ của mình để quán triệt trong mọi mặt công
tác và sản xuất một cách thường xuyên và tự giác. Thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp
có trách nhiệm, cùng với công đoàn cơ sở, đặt kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt
việc giáo dục chính trị tư tưởng, phổ biến sâu rộng nội dung của trách nhiệm
bảo vệ tài sản của Nhà nước, giải thích rõ ý nghĩa của việc ban hành chế độ
trách nhiệm vật chất để mọi người nắm vững và tham gia vào việc thực hiện chế
độ.
Trên cơ sở nhận thức được nâng cao,
phải tăng cường quản lý kinh tế tài chính, giữ vững các nguyên tắc quản lý xã
hội chủ nghĩa, đề cao kỷ luật lao động, kiên quyết chấp hành các chế độ, thể lệ
quản lý, kịp thời chấn chỉnh các thiếu sót trong công tác quản lý, ngăn chặn
những vi phạm chính sách, chế độ, thể lệ. Ngoài các nhiệm vụ đã ghi rõ trong
điều 3 bản chế độ trách nhiệm vật chất, thủ trưởng các ngành ở trung ương và Ủy
ban hành chính các khu, thành, tỉnh còn có trách nhiệm quy định những điều vụ
thể cần thiết (kể cả thẩm quyền xử lý của từng loại cơ quan, xí nghiệp) để áp
dụng đối với các cơ quan, xí nghiệp thuộc quyền; những quy định này phải được
Bộ Tài chính, Bộ Lao động và Tổng công đoàn thỏa thuận trước khi ban hành.
Trong quá trình thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất, các
ngành, các địa phương gặp khó khăn gì, xin phản ánh kịp thời cho Bộ Tài chính
để Bộ Tài chính bàn bạc với Bộ Lao động và Tổng công đoàn giải quyết một cách
thống nhất.
K.T BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|
TM. BAN THƯ KÝ TỔNG CÔNG ĐOÀN VIỆT
NAM
ỦY VIÊN
Nguyễn Văn Bút
|
K.T BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
THỨ TRƯỞNG
Bùi Quỳ
|