Thông tư liên bộ 01-TT/LB năm 1962 giải thích và hướng dẫn thi hành điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội áp dụng cho công nhân, viên chức Nhà nước do Bộ Lao động - Bộ Nội vụ ban hành

Số hiệu 01-TT/LB
Ngày ban hành 23/01/1962
Ngày có hiệu lực 07/02/1962
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Lao động,Bộ Nội vụ
Người ký Lê Tất Đắc,Nguyễn Văn Tạo
Lĩnh vực Bảo hiểm,Lao động - Tiền lương

BỘ LAO ĐỘNG - BỘ NỘI VỤ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******

Số: 01-TT/LB

Hà Nội, ngày 23 tháng 01 năm 1962

 

THÔNG TƯ

GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI ÁP DỤNG CHO CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC

Ngày 27 tháng 12 năm 1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội áp dụng cho công nhân, viên chức Nhà nước.

Nay Liên bộ Lao động, Nội vụ ra thông tư này nhằm giải thích và quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các chế độ đã ghi trong điều lệ. Còn những vấn đề thuộc về chế độ thuốc men, điều trị, khám xét thương tật, bệnh nghề nghiệp, cách tính thời gian công tác và việc quản lý quỹ bảo hiểm xã hội sẽ do các thông tư khác quy định.

NNGUYÊN TẮC CHUNG

1. Đối tượng, phạm vi thi hành của điều lệ:

- Mọi chế độ bảo hiểm xã hội từ nay sẽ thi hành thống nhất cho toàn thể công nhân, viên chức Nhà nước, không phân biệt dân tộc, nam, nữ, quốc tịch, làm việc có tính chất thường xuyên liên tục thuộc kế hoạch lao động và tiền lương của các cơ quan hành chính sự nghiệp, (kể cả các cơ quan của các đoàn thể nhân dân), các xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường.

Những người trong thời kỳ thử việc, những người làm việc có tính chất tạm thời theo vụ, theo mùa, những người tạm tuyển, công nhật hay theo hợp đồng trong một thời gian ngắn, khi có việc thì làm, khi hết việc thì nghỉ, những người làm việc cho cơ quan, xí nghiệp theo lối khoán tự do hay làm riêng lẻ hoặc thuộc các tổ chức tập đoàn hay hợp tác xã như: bốc vác, sơn tràng, gia công, khoán việc..., cơ quan không quản lý, không tuyển dụng, thì không thuộc đối tượng thi hành của điều lệ, trừ chế độ đãi ngộ về tai nạn lao động sẽ có quy định riêng. Các quyền lợi về bảo hiểm xã hội của những người không thuộc đối tượng thi hành Điều lệ sẽ do cơ quan sử dụng cùng với họ thỏa thuận và ghi vào hợp đồng lao động ký kết giữa hai bên. Những người làm theo hợp động nhưng đã liên tục từ hợp động này sang hợp đồng khác thì cũng thuộc đối tượng thi hành của điều lệ, trừ những người làm theo hoạt động với một chế độ lương đặc biệt.

Các Bộ, các cơ quan, đoàn thể trung ương, các Ủy ban hành chính địa phương sẽ căn cứ quy định trên đây để xác định từng loại đối tượng cho đúng. Nếu có những trường hợp chưa rõ, sẽ trao đổi với Bộ Nội vụ (nếu là khu vực hành chính sự nghiệp), hoặc Bộ Lao động (nếu là khu vực sản xuất) để thống nhất giải quyết.

Những công nhân, viên chức được cơ quan, xí nghiệp cử đi học và hưởng sinh hoạt phí bằng tỷ lệ % lương do quỹ đào tạo đài thọ cũng thuộc đối tượng thi hành của điều lệ này.

Đối với công nhân, viên chức ở các xí nghiệp công tư hợp doanh, các chế độ bảo hiểm xã hội sẽ được thi hành thống nhất như đối với công nhân, viên chức ở các xí nghiệp quốc doanh, nhưng phải trên cơ sở chế độ tiền lương đã được cải tiến. Các khoản trợ cấp về bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức lương cấp bậc hoặc lương chức vụ mới được xếp.

Đối với các xí nghiệp công tư hợp doanh chưa cải tiến chế độ tiền lương thì Ủy ban hành chính địa phương sẽ dựa vào điều lệ bảo hiểm xã hội và căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh thực tế của mỗi xí nghiệp, để thi hành một số chế độ cần thiết, nhưng mức độ trợ cấp của mỗi chế độ do Ủy ban hành chính quyết định.

Đối với công nhân, viên chức ở các xí nghiệp công nghiệp địa phương, nơi nào đã có kế hoạch lao động tiền lương ghi trong kế hoạch Nhà nước thì cũng áp dụng điều lệ này.

Còn những xí nghiệp địa phương mới xây dựng, tình hình sản xuất, kinh doanh chưa ổn định và chưa có kế hoạch lao động tiền lương ghi trong kế hoạch Nhà nước thì các Ủy ban hành chính địa phương sẽ dựa vào phương châm chung về xây dựng công nghiệp địa phương và tùy theo tình hình vốn, tình hình sản xuất, kinh doanh của mỗi xí nghiệp, và dựa theo điều lệ này mà quy định mức độ, phạm vi thi hành một số chế độ cần thiết về bảo hiểm xã hội.

Những quyết định của Ủy ban hành chính địa phương về các chế độ bảo hiểm xã hội cho các xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp địa phương nói trên cần gửi cho Bộ Lao động và Tổng Công đoàn Việt Nam, để biết và tham gia ý kiến nếu thấy cần thiết.

Riêng những công nhân, viên chức Nhà nước được điều đến công tác ở các xí nghiệp, công tư hợp doanh hay xí nghiệp công nghiệp địa phương chưa đủ điều kiện thi hành toàn bộ bản điều lệ bảo hiểm xã hội thì vẫn được hưởng mọi chế độ bảo hiểm xã hội như khi còn công tác ở cơ quan, xí nghiệp nhà nước, nghĩa là cũng thuộc đối tượng thi hành của điều lệ này.

2. Đối với công nhân, viên chức bị kết án phạt giam:

Trong thời gian công nhân, viên chức bị kết án phạt giam, kể cả thời gian bị tạm giam, thì không được hưởng các quyền lợi về bảo hiểm xã hội.

CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI

Tiết 1: CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC KHI ỐM ĐAU

Công nhân, viên chức khi ốm đau, tạm thời phải nghỉ việc sẽ không hưởng lương mà hưởng một khoản trợ cấp tính theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương. Tỷ lệ cao hay thấp là tùy theo thời gian công tác liên tục của từng người và tùy theo thời gian nghỉ ốm dài hay ngắn. Trợ cấp khi ốm đau nói chung thấp hơn tiền lương khi đang làm việc, nhưng có chiếu cố thích đáng những công nhân, viên chức đã công tác lâu năm, những công nhân, viên chức là anh hùng lao động, là thương binh, những công nhân, viên chức công tác ở miền núi và ở những nghề đặc biệt nặng nhọc, có hại sức khỏe.

Đối với những người lương thấp, khoản trợ cấp khi ốm đau được bảo đảm bằng một mức tối thiểu để họ có thể duy trì được mức sinh hoạt cần thiết.

1. Trợ cấp khi ốm đau:

a) Theo điều 7 của điều lệ khi công nhân, viên chức ốm đau được thầy thuốc chứng nhận phải tạm thời nghỉ việc để chữa bệnh, không kể là bệnh gì (trừ bệnh nghề nghiệp có quy định riêng) dù ở nhà riêng, ở nhà tập thể hay ở bệnh viện, bệnh xá, nhà điều dưỡng... được hưởng một khoản trợ cấp tính theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương tùy theo thời gian công tác liên tục của từng người. Trợ cấp con, nếu có, vẫn được trả đủ.

Thầy thuốc nói ở điều lệ là y sĩ, bác sĩ nhà nước: nơi không có y sĩ, bác sĩ thì do y tá đề nghị, thủ trưởng cơ quan xét và quyết định.

b) Thời gian được hưởng trợ cấp là suốt thời gian tạm thời nghỉ việc để chữa bệnh, gồm cả thời gian điều dưỡng, nghỉ dưỡng sức, kể từ ngày người công nhân, viên chức bắt đầu nghỉ cho đến khi khỏi bệnh trở lại làm việc, hoặc cho đến khi người đó được Hội đồng Giám định y khoa chứng nhận là mất sức lao động, không thể tiếp tục công tác được nữa và được chuyển sang hưởng chế độ trợ cấp mất sức lao động dài hạn hay trợ cấp một lần.

c) Công nhân, viên chức bắt đầu hưởng trợ cấp ngay từ ngày đầu nghỉ việc vì ốm đau, chỉ trừ khi đi khám bệnh, không quá 1 buổi thì vẫn được trả đủ lương như khi công tác. Nếu thời gian phải nghỉ việc để đi khám bệnh quá 1 buổi thì tất cả thời gian đó được tính theo trợ cấp khi ốm đau.

Thí dụ: ông A buổi sáng nghỉ việc đi khám bệnh, buổi chiều lại đi làm, thì buổi đi khám bệnh đó vẫn được trả đủ lương, không tính như nghỉ việc vì ốm đau.

[...]