BỘ TÀI CHÍNH
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 78-TC/TCT
|
Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 1987
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN QUYỀN TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
CỦA CÁC ĐƠN VỊ KINH TẾ CƠ SỞ THEO QĐ 217/HĐBT NGÀY 14/11/1987 CỦA HĐBT
Thi hành Quyết định số 217/HĐBT
ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng về các chính sách đổi mới kế hoạch hoá
và hạch toán kinh doanh XHCN đối với xí nghiệp quốc doanh, Bộ Tài chính hướng dẫn
việc thực hiện quyền tự chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở như sau (từ Điều 16 đến Điều 26 trong Quyết định trên);
1/ Về việc sử
dụng linh hoạt các nguồn lực của xí nghiệp (Điều 16):
Xí nghiệp được sử dụng linh hoạt
các nguồn vốn và qũy của mình (bao gồm vốn lưu động, vốn tự có về đầu tư xây dựng
cơ bản, vốn khấu hao sửa chữa lớn và các quỹ xí nghiệp) để phục vụ kịp thời các
yêu cầu sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc có hoàn lại; Nghĩa là khi nguồn vốn
quỹ thiếu, xí nghiệp có thể tạm thời sử dụng nguồn vốn khác để bù đắp, sau đó
phải hoàn trả lại.
2/ Chế độ cấp
vốn ban đầu một lần (Điều 18):
Nguồn
vốn lưu động của xí nghiệp bao gồm:
-
Vốn lưu động định mức của xí nghiệp được Nhà nước cấp một lần khi xí nghiệp mới
bước vào hoạt động.
Nếu
xí nghiệp được đưa vào hoạt động từng bộ phận theo luận chứng kinh tế kỹ thuật
thì vốn lưu động định mức của xí nghiệp được xác định và cấp phát theo từng đợt
tương ứng với công suất thực tế huy động.
-
Vốn xí nghiệp tự bổ sung hàng năm từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích
từ lợi nhuận để lại cho xí nghiệp.
-
Vốn vay Ngân hàng, kể cả vay bằng ngoại tệ.
-
Các khoản nợ định mức và nguồn vốn khác (như đã nói ở mục 6 dưới đây về chế độ
tạo vốn tự có của xí nghiệp).
Khi
mới bước vào sản xuất, xí nghiệp phải xây dựng định mức vốn lưu động, trình cơ
quan chủ quản cùng với cơ quan tài chính và Ngân hàng cùng cấp xét duyệt. Kể từ
1/1/1988, đối với các xí nghiệp mới đi vào hoạt động, Ngân sách Nhà nước cấp đủ
vốn lưu động định mức 1 lần theo công suất thực tế huy động.
Đối
với các xí nghiệp đang hoạt động, sau khi xác định lại định mức vốn lưu động
theo mặt bằng giá mới, phần vốn lưu động định mức thiếu được bổ sung bằng các
nguồn sau đây:
a.
Chênh lệch giá vật tư hàng hoá kiểm kê tồn kho theo Thông tư Liên Bộ Tài chính
- Ngân hàng số 46 TT/LBTC-NH ngày 30/9/1987.
b.
Xí nghiệp tự bổ sung bằng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận
để lại xí nghiệp theo chế độ hiện hành.
c.
Huy động vật tư ứ đọng ra sử dụng.
d.
Cơ quan chủ quản cấp trên điều hoà từ nơi thừa đến nơi thiếu (nếu có) trong nội
bộ ngành sau khi thống nhất với cơ quan tài chính và Ngân hàng cùng cấp.
e.
Sau khi bổ sung từ các nguồn nói trên, nếu vốn lưu động định mức được các cơ
quan có thẩm quyền nói trên duyệt phần Ngân sách cấp theo quy định tại Thông tư
Liên Bộ Tài chính - Ngân hàng số 46 TTLB - NHNN ngày 6/12/1986 vẫn còn thiếu
thì xin Nhà nước cấp bổ sung để đảm bảo vốn cho xí nghiệp hoạt động bình thường.
Phần
cho vay trong định mức vốn lưu động theo phần như quy định theo các chế độ trước
đây và quy định tại Thông tư nói trên, nay sẽ do Ngân hàng Nhà nước Trung ương
hướng dẫn và xí nghiệp thực hiện theo hướng dẫn đó của Ngân hàng.
3/ Phương thức nhượng bán TSCĐ (Điều 19 và mục 2, Điều
2 Quyết định 217):
Những
TSCĐ được đầu tư bằng nguồn vốn Ngân sách nếu không cần dùng thì xí nghiệp báo
cáo cơ quan quản lý cấp trên để điều động cho các xí nghiệp khác theo nguyên tắc
nhượng bán TSCĐ trong ngành sử dụng hoặc cho phép bán (hoặc cho thuê) cho các
đơn vị kinh tế quốc doanh khác ngoài ngành theo giá cả được hai bên mua bán chấp
thuận, trên cơ sở giá trị còn lại của TSCĐ ở thời điểm bán. Những TSCĐ này nếu
nhượng bán ra ngoài khu vực kinh tế quốc doanh thì phải có ý kiến thoả thuận của
cơ quan tài chính cùng cấp. Sau 30 ngày kể từ khi gửi báo cáo nếu các cơ quan cấp
trên không có ý kiến, xí nghiệp được bán tài sản đó theo phương án đã trình.
Đối
với TSCĐ được mua sắm bằng nguồn vốn tự có về đầu tư XDCB hoặc quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất của xí nghiệp, bằng vốn vay Ngân hàng hoặc bằng các nguồn vốn
huy động khác, nếu không cần dùng xí nghiệp được quyền bán cho các đơn vị thuộc
các thành phần kinh tế, ưu tiên bán cho quốc doanh và tập thể theo giá cả thoả
thuận ở thời điểm bán và theo phân cấp, chất lượng còn lại của TSCĐ. Tiền thu về
nhượng bán (hoặc cho thuê) TSCĐ đầu tư từ mọi nguồn vốn, kể cả nguồn vốn vay
Ngân hàng sau khi đã trả đủ vốn và lãi vay đều được đưa vào quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất của xí nghiệp để bổ sung vốn tự có về đầu tư XDCB nhằm duy
trì và đổi mới TSCĐ.
Các
xí nghiệp phải báo cáo theo yêu cầu của cơ quan quản lý cấp trên hoặc cơ quan
tài chính cùng cấp để thực hiện kiểm soát việc mua bán TSCĐ, bảo đảm nguyên tắc:
mua và bán TSCĐ của các đơn vị sản xuất là xuất phát từ yêu cầu mở rộng phát
triển sản xuất kinh doanh , cấm mua đi bán lại để hưởng chênh lệch giá.
Xí
nghiệp được tự thanh lý TSCĐ đã hết thời hạn khấu hao bất kể là từ nguồn nào.
Tiền thu về thanh lý TSCĐ được bổ sung vào quỹ khuyến khích phát triển sản xuất
của xí nghiệp.
4/ Chế độ khấu hao và sử dụng vốn khấu hao TSCĐ (Điều 20 và Điều 21):
a.
Nguyên giá TSCĐ hiện có, giá trị hao mòn thực tế và giá trị còn lại (vốn cố định)
của TSCĐ đang sử dụng được xác định trên cơ sở phù hợp với các quy định hiện
hành của Nhà nước.
Những
TSCĐ mới được mua sắm thì hạch toán nguyên giá theo giá thực tế mua cộng chi
phí lắp đặt, vận chuyển, bảo quản (nếu có).
b.
Tất cả TSCĐ hiện có của xí nghiệp đều phải trích khấu hao và giá thành sản phẩm.
Tỷ lệ khấu hao TSCĐ được áp dụng thống nhất theo chế độ quy định của Bộ Tài
chính cho những TSCĐ sử dụng phổ biến ở từng ngành kinh tế kỹ thuật, hoặc áp dụng
theo tỷ lệ khấu hao do các ngành chủ quản quy định đối với những TSCĐ còn lại
trong ngành sau khi thoả thuận với Bộ Tài chính trên nguyên tắc:
Tỷ
lệ khấu hao cơ bản phải phản ánh đúng mức độ hao mòn thực tế TSCĐ trong điều kiện
sản xuất bình thường.
Tỷ
lệ khấu hao sửa chữa lớn phải phản ánh đúng chi phí thực tế hợp lý phù hợp với
mặt bằng giá lương về sửa chữa lớn tài sản cố định theo định kỳ đối với mỗi loại
TSCĐ.
Tài
sản cố định chưa khấu hao hết nhưng còn sử dụng được thì được đánh giá lại và
tiếp tục trích khấu hao và hạch toán vào giá thành sản phẩm; số tiền khấu hao
này được đưa vào quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của xí nghiệp.
Tài
sản cố định chưa khấu hao hết mà đã hư hỏng do nguyên nhân chủ quan, xí nghiệp
phải làm thủ tục thanh lý và phải dùng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của
xí nghiệp để bù đắp phần thiệt hại về giá trị TSCĐ.
c.
Xí nghiệp được lập vốn tự có về đầu tư XDCB gửi tại Ngân hàng đầu tư và xây dựng
từ các nguồn: toàn bộ tiền trích khấu hao cơ bản của các xí nghiệp đang hoạt động
được để lại cho xí nghiệp, một phần quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và một
phần quỹ phúc lợi.
Những
xí nghiệp khác mới đi vào hoạt động trong 3 năm đầu thì nộp 70% khấu hao cơ bản
vào Ngân sách Nhà nước. Số còn lại để lập vốn tự có về đầu tư xây dựng cơ bản của
xí nghiệp.
Đối
với những tài sản cố định đầu tư bằng vốn tự có của xí nghiệp hoặc vốn vay thì
tiền trích khấu hao cơ bản để lại toàn bộ cho xí nghiệp để trả nợ vốn vay và sử
dụng theo yêu cầu đầu tư của xí nghiệp.
Hàng
năm xí nghiệp được sử dụng vốn tự có để đầu tư bổ sung, thay thế, đổi mới tài sản
cố định, duy trì và nâng cao năng lực sản xuất của xí nghiệp nhưng phải được kế
hoạch hoá để bảo đảm tự cân đối được về vật tư, thiết bị và lực lượng thi công.
Trường
hợp nguồn vốn tự có không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư theo kế hoạch thì có thể
vay vốn Ngân hàng hoặc tự huy động từ các nguồn vốn khác như quy định ở điểm
“6” dưới đây để bổ sung. Nguồn trả nợ Ngân hàng về vốn vay này là vốn tự có và
đầu tư XDCB của xí nghiệp.
Trường
hợp xí nghiệp xét thấy sửa chữa lớn tài sản cố định quá tốn kém và không có hiệu
quả thì xí nghiệp có thể sử dụng một phần vốn khấu hao sửa chữa lớn bổ sung vào
vốn tự có về đầu tư XDCB để mua sắm tài sản cố định thay thế. Ngược lại trong
những trường hợp cần thiết, xí nghiệp có thể sử dụng một phần vốn tự có về đầu
tư xây dựng cơ bản chưa sử dụng để bổ sung vốn sửa chữa lớn còn thiếu.
Trên
cơ sở cân đối chung về kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản trong ngành. Liên hiệp
các xí nghiệp hoặc Tổng Công ty được điều hoà vốn tự có về đầu tư xây dựng cơ bản
từ nơi thừa đến nơi thiếu trong nội bộ Liên hiệp hoặc Tổng Công ty với sự thoả
thuận của xí nghiệp; khi xí nghiệp có yêu cầu về vốn đầu tư thì Liên hiệp hoặc
Tổng Công ty phải điều trả lại vốn cho xí nghiệp.
5/ Chế độ cấp phát vốn đầu tư XDCB (Điều 38):
Ngân
sách Nhà nước (Ngân sách Trung ương và Ngân sách Địa phương) chỉ cấp vốn theo kế
hoạch đầu tư được duyệt cho những công trình được đối tượng Ngân sách cấp phát,
bao gồm các công trình phúc lợi công cộng và cơ sở hạ tầng. Đối với các công
trình sản xuất - kinh doanh thì Ngân sách Nhà nước cấp vốn cho những công trình
trọng điểm của Nhà nước có quy mô lớn và thời gian thu hồi vốn dài (danh mục những
công trình này do Uỷ ban kế hoạch Nhà nước chủ trì cùng Bộ Tài chính trình Hội
đồng Bộ trưởng duyệt cụ thể theo kế hoạch hàng năm và 5 năm). Còn những công
trình sản xuất khác: (bao gồm các công trình sản xuất - kinh doanh dịch vụ) thì
đầu tư bằng vốn tự có của xí nghiệp, vốn vay Ngân hàng và các nguồn vốn khác mà
xí nghiệp có thể huy động theo đúng chính sách của Nhà nước.
Đối
với các công trình do nguồn vốn Ngân sách Nhà nước cấp phát thì Ngân hàng thực
hiện việc cấp phát thay cho tài chính bằng nguồn vốn do tài chính chuyển sang
theo kế hoạch từng công trình.
Những
tài sản cố định mua sắm bằng vốn vay Ngân hàng để đầu tư chiều sâu thì nguồn trả
nợ về vốn là tiền KHCB của TSCĐ đi vay, còn nguồn trả lãi vay được tính vào giá
thành sản phẩm xí nghiệp. Trường hợp thời gian trả nợ vay nhanh hơn thời gian
khấu hao TSCĐ thì xí nghiệp tự quyết định bổ sung nguồn trả nợ vốn vay từ vốn tự
có về đầu tư XDCB của xí nghiệp. Các đơn vị xí nghiệp không được lấy lợi nhuận
và các khoản khác phải nộp Ngân sách Nhà nước để trả nợ Ngân hàng.
Nhà
nước khống chế tổng mức đầu tư XDCB trong kế hoạch thống nhất của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Mức khống chế đó không phân biệt nguồn vốn và được phân bổ
cho từng ngành và từng địa phương để giao cho từng đơn vị kinh tế cơ sở tổ chức
thực hiện.
6/ Chế độ tự tạo vốn của xí nghiệp (Điều 22):
-
Ngoài phần vốn cố định và vốn lưu động Nhà nước cấp ban đầu, các đơn vị xí nghiệp
được quyền và có trách nhiệm tự tạo vốn tự có để mở rộng sản xuất kinh doanh dưới
các hình thức:
-
Tự bổ sung bằng phần lợi nhuận để lại xí nghiệp (thông qua quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất).
-
Vay vốn Ngân hàng, kể cả vay ngoại tệ.
-
Vay vốn nước ngoài để nhập vật tư, thiết bị.
-
Góp vốn thông qua các hình thức liên kết sản xuất với các đơn vị quốc doanh khác
và các thành phần kinh tế khác.
-
Thu hút vốn của tập thể, cá nhân trong nước, của kiều bào, của nước dưới các
hình thức góp cổ phần hoặc cho vay, trên cơ sở thực hiện các cam kết với người
góp vốn hoặc cho vay vốn.
Xí
nghiệp được quyền quyết định nội dung các cam kết trên cơ sở thoả thuận với người
góp vốn hoặc cho vay vốn về các chế độ hoàn vốn, trả lại hoặc chia sản phẩm
(ngoài phần sản phẩm chủ yếu thuộc chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh phải tiêu thụ
theo địa chỉ quy định) trên nguyên tắc bảo đảm các lợi ích: Nhà nước, tập thể
xí nghiệp và người góp vốn, và phải chịu trách nhiệm vật chất về việc sử dụng
có hiệu quả các nguồn vốn huy động đó.
7/ Hạch toán giá thành sản phẩm (Điều 23):
a.
Vật tư do Nhà nước cung ứng thì hạch toán vào giá thành sản phẩm theo giá Nhà
nước quy định.
Vật
tư trong nước do xí nghiệp tự kiếm thì hạch toán theo giá thực mua. Vật tư thiết
bị tự nhập khẩu thì hạch toán theo giá bán buôn vật tư trong nước. Trường hợp
không có giá trong nước thì tính giá trên cơ sở nguyên tệ nhập nhân với tỷ giá
quy định cho từng nhóm hàng và cộng thêm phí ngoại thương.
Xí
nghiệp tự kiến vật tư (kể cả vật tư tự nhập khẩu) để sản xuất thêm sản phẩm phải
tự tính toán đảm bảo sản xuất có hiệu quả, tự bù đắp được chi phí sản xuất và
kinh doanh có lãi (trừ một số mặt hàng Nhà nước bù lỗ theo chính sách).
b.
Các khoản lãi vay NH về mua sắm TSCĐ để đầu tư chiều sâu, lãi vay vốn lưu động
trong định mức và trên định mức trong kế hoạch tín dụng được hạch toán vào giá
thành sản phẩm.
Không
hạch toán vào giá thành sản phẩm : tiền lãi vay vốn lưu động trên định mức
ngoài kế hoạch tín dụng; vay vốn của tập thể hoặc tư nhân theo các cam kết chia
lãi của xí nghiệp, các khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng, phạt tín dụng thanh
toán, vi phạm kỷ luật thu nộp và các khoản chi không đúng chế độ.
Các
khoản chi nói trên được trả bằng nguồn lợi nhuận để lại xí nghiệp.
c.
Các khoản chi phí như: chi phí bồi dưỡng tay nghề tập trung, các trường lớp, bệnh
viện bên cạnh xí nghiệp, Tổng Công ty hạch toán kinh tế độc lập, chi phí bệnh xá,
trạm xá, chi phí phục vụ nhà ăn tập thể, nhà ăn bồi dưỡng cả 3 độc hại, chi phí
luyện tập quân sự . . . đều được hạch toán vào giá thành sản phẩm như đã quy định
tại Thông tư số 22 TC/CN ngày 19/3/87 của Bộ Tài chính
Các
bệnh viện hay trường đào tạo có quy mô lớn ở các vùng miền núi, hải đảo xa
trung tâm văn hoá xã hội mà giá thành không có khả năng chịu đựng thì từng bước
sắp xếp bàn giao cho các cơ quan chức năng quản lý và đảm bảo chi bằng nguồn
Ngân sách cấp phát. Trong khi chưa sắp xếp được thì Ngân sách tạm thời vẫn cấp
phát.
Những
công trình nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật có liên quan trực tiếp
đến sản xuất, xí nghiệp được hạch toán vào giá thành sản phẩm.
8/ Phân phối lợi nhuận xí nghiệp (Điều 24):
a.
Lợi nhuận thực hiện của xí nghiệp được xác định trên cơ sở tổng doanh thu thực
hiện (tính theo giá tiêu thụ sản phẩm) trừ (-) giá thành sản phẩm đã tiêu thụ,
trừ (-) thu quốc doanh phải nộp và các khoản nộp Ngân sách khác như chênh lệch
giá (nếu có).
Tuỳ
theo từng ngành, tổng số lợi nhuận thực hiện của xí nghiệp (không phân biệt
trong kế hoạch và vượt kế hoạch) được phân phối như sau:
-
Để lại xí nghiệp từ 40 đến 60%
-
Nộp Ngân sách Nhà nước từ 60 đến 40%
Bộ
Tài chính sẽ quy định cụ thể tỷ lệ này cho từng ngành.
Số
lợi nhuận tăng thêm so với kế hoạch do áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật được
để lại toàn bộ cho xí nghiệp từ 1 đến 3 năm đầu để bổ sung vào các quỹ xí nghiệp
và thưởng cho các tập thể, cá nhân trực tiếp đóng góp vào việc đó (có hướng dẫn
riêng về việc khen thưởng các công trình nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật).
70%
số lợi nhuận tăng thêm so với kế hoạch do tiết kiệm tiêu hao vật tư so với định
mức do cấp có thẩm quyền duyệt (sau khi đã bù trừ với các khoản lãng phí) được
để lại xí nghiệp để trích vào các quỹ xí nghiệp.
Xí
nghiệp được trừ các khoản lợi nhuận tăng thêm đó (100% do áp dụng khoa học kỹ
thuật và 70% do tiết kiệm tiêu hao vật tư) trước khi phân phối theo các tỷ lệ
quy định nói trên.
Số
tiền tiết kiệm hoặc lợi nhuận tăng thêm nói trên được trích vào quỹ khuyến
khích phát triển sản xuất tối thiểu là 35% số còn lại đưa vào 2 quỹ khen thưởng
và phúc lợi. Mức thưởng cho các tập thể và cá nhân đã trực tiếp đóng góp vào việc
áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật do Giám đốc xí nghiệp quyết định sau khi
có ý kiến tham gia của tổ chức công đoàn xí nghiệp.
Riêng
lợi nhuận sản xuất phụ bằng phế liệu, phế phẩm không phân biệt trong mức kế hoạch
và vượt mức kế hoạch đều được phân phối: nếu xí nghiệp hoàn thành kế hoạch lợi
nhuận của sản xuất chính thì 70% để lại cho xí nghiệp và 30% nộp Ngân sách Nhà
nước; Nếu xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch lợi nhuận của sản xuất chính thì
50% để lại cho xí nghiệp và 50% nộp Ngân sách Nhà nước.
Nếu
xí nghiệp không hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh chủ yếu thì phần lợi nhuận để
lại xí nghiệp sẽ bị giảm trừ 2% tổng mức trích vào 3 quỹ xí nghiệp cho mỗi %
không hoàn thành về 1 chỉ tiêu pháp lệnh.
b.
Lợi nhuận để lại cho xí nghiệp được sử dụng như sau:
1-
Trả tiền lãi vay Ngân hàng về vốn lưu động trên định mức ngoài kế hoạch các khoản
trả tiền lãi, vay tập thể hoặc tư nhân theo các cam kết chia lãi của xí nghiệp.
2-
Thanh toán các khoản nộp phạt như vi phạm hợp đồng kinh tế, phạt vi phạm kỷ luật
tiền mặt, tín dụng, thanh toán, kỷ luật nộp Ngân sách.
3-
Số còn lại (coi như 100%) được phân phối cho các quỹ theo nguyên tắc sau đây:
-
Trích cho quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, tối thiểu là 35% và không hạn
chế mức tối đa tuỳ theo ngành sản xuất và yêu cầu cụ thể của xí nghiệp mà Đại hội
công nhân viên chức xí nghiệp quyết định cụ thể. Dành 1% quỹ khuyến khích phát
triển sản xuất của xí nghiệp nộp lên để lập quỹ dự trữ tài chính tập trung ở
Liên hiệp các xí nghiệp, Tổng Công ty.
-
Số còn lại được dùng để lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của xí nghiệp, mức cụ
thể vào mỗi quỹ do Đại hội công nhân viên chức xí nghiệp quyết định.
Trong
khi chưa tổ chức Đại hội công nhân viên chức xí nghiệp thì Giám đốc tạm thời
quy định việc phân phối vào 3 quỹ xí nghiệp theo nguyên tắc trên.
Trong
điều kiện giá cả, tiền lương, thu nhập còn biến động và chênh lệch nhiều giữa
các ngành, các địa phương; Trong khi Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Bộ
Tài chính và Tổng công đoàn Việt nam chưa xác định được tỷ lệ điều tiết mức thu
nhập hợp lý trong từng ngành nghề để đảm bảo công bằng xã hội như quy định tại Điều 50 Quyết định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ
trưởng và chưa thực hiện chế độ thuế thu nhập đối với người lao động; Nếu tổng
số quỹ khen thưởng và qũy phúc lợi của đơn vị kinh tế cơ sở vượt quá 6 tháng
lương thực hiện cả năm (trừ các khoản chi bất hợp lý trong quỹ lương) của công
nhân viên xí nghiệp thì Nhà nước điều tiết lại một phần của các qũy này theo tỷ
lệ lũy tiến như sau:
-
Từ trên 6 tháng đến 8 tháng lương thực hiện cả năm thì số vượt đó (coi là
100%), xí nghiệp phải nộp Ngân sách Nhà nước 50% và 10% nộp cơ quan quản lý cấp
trên (Liên hiệp xí nghiệp, Tổng Công ty) để lập quỹ dự trữ tài chính; số còn lại
40% bổ sung vào các qũy xí nghiệp do Giám đốc xí nghiệp quyết định.
-
Từ trên 8 tháng lương thực hiện cả năm thì số vượt đó (coi là 100%) xí nghiệp
phải nộp Ngân sách Nhà nước 70%, 10% nộp lên cơ quan quản lý cấp trên (Liên hiệp
xí nghiệp, Tổng Công ty) để lập quỹ dự trữ tài chính; số còn lại 20% bổ sung
vào các quỹ xí nghiệp do Giám đốc xí nghiệp quyết định.
Những
quy định về phân phối lợi nhuận nói trên được áp dụng từ năm 1988, năm 1987 vẫn
áp dụng chế độ phân phối lợi nhuận như các quy định hiện hành.
9/ Chế độ thu nộp Ngân sách (Điều 25):
Tất
cả các xí nghiệp quốc doanh đều phải nộp một khoản thu quốc doanh tính bằng tỷ
lệ % ổn định từ 3 - 5 năm trên doanh thu bán hàng theo chế độ quy định thống nhất
của Nhà nước. Mức thu quy định thống nhất cho các sản phẩm giống nhau trên cùng
một địa bàn khu vực, không phân biệt xí nghiệp do cấp trên nào quản lý. Trong khi
Bộ Tài chính chưa ban hành chế độ thu mới, tiếp tục thực hiện chế độ thu quốc
doanh và mức thu hiện hành được quy định trong Thông tư số 47 TC/TQD ngày
27/12/1985 và Thông tư số 21 TC/TQD ngày 21/8/1986 của Bộ Tài chính.
10/ Điều khoản thi hành:
a.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ năm 1988 và được áp dụng cho tất cả các
đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh hạch toán kinh tế độc lập thuộc tất cả các
ngành kinh tế Trung ương và địa phương.
b.
Những quy định trước đây trái với Thông tư này đều bãi bỏ.
Trong
quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc đề nghị các ngành và các địa phương phản
ánh kịp thời để Bộ Tài chính nghiên cứu giải quyết./.
Nơi nhận:
-
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan trực thuộc HĐBT,
cơ quan trực thuộc Quốc hội
- Các cơ quan đoàn thể TW, các Ban của Đảng;
- UBND các tỉnh, TP đặc khu trực thuộc TW
- Sở TC các tỉnh, TP, đặc khu
- Chi cục TQD, QLCTXN tỉnh, TP, Đ.K
- Các Cục, Vụ, Viện, Ban, Phòngh thuộc Bộ
- Lưu: VP, Vụ CN.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Hoàng Quy
|