Thông tư 72/2001/TT-BTC hưóng dẫn Nghị định 43/2001/NĐ-CP quy định chế độ tài chính đối với Doanh nghiệp bảo hiểm và Doanh nghiệp môi giớí bảo hiểm do Bộ Tài chính ban hành

Số hiệu 72/2001/TT-BTC
Ngày ban hành 28/08/2001
Ngày có hiệu lực 16/08/2001
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Tài chính
Người ký Lê Thị Băng Tâm
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Bảo hiểm

BỘ TÀI CHÍNH
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 72/2001/TT-BTC

Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2001

 

THÔNG TƯ

CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 72/2001/TT-BTC NGÀY 28 THÁNG 8 NĂM 2001 HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 43/2001/NĐ-CP NGÀY 01 THÁNG 8 NĂM 2001 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VÀ DOANH NGHIỆP MÔI GIỚI BẢO HIỂM

Căn cứ Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 9 tháng 12 năm 2000;
Căn cứ Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm;
Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể như sau:

I. VỐN ĐIỀU LỆ

1. Các quy định về vốn điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được thực hiện theo Điều 5 Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.

2. Vốn điều lệ đã góp của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là số vốn điều lệ do chủ sở hữu thực góp vào doanh nghiệp.

3. Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được thành lập, tổ chức và hoạt động trước ngày Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực, có số vốn điều lệ thấp hơn mức vốn pháp định quy định tại Điều 4 Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải xây dựng và báo cáo Bộ Tài chính phương án bổ sung đủ vốn điều lệ trong thời hạn 3 năm.

Sau thời hạn 3 năm mà doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm vẫn không bổ sung đủ số vốn điều lệ đã góp theo quy định thì bị coi là không đảm bảo các yêu cầu về tài chính và Bộ Tài chính có thể thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại điểm e, khoản 1, Điều 68 Luật kinh doanh bảo hiểm.

II. TIỀN KÝ QUỸ

1. Việc ký quỹ của doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện theo Điều 6 Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.

2. Trong trường hợp số tiền ký quỹ của doanh nghiệp bảo hiểm thấp hơn so với quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải bổ sung số tiền ký quỹ theo quy định.

3. Trong trường hợp số tiền ký quỹ của doanh nghiệp bảo hiểm cao hơn so với quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm được phép điều chỉnh lại số tiền ký quỹ theo quy định.

III. DỰ PHÒNG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM

1. Dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm là khoản tiền mà doanh nghiệp phải trích lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.

2. Doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm đầy đủ theo từng nghiệp vụ bảo hiểm, từng hợp đồng bảo hiểm tương ứng với phần trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp bảo hiểm.

3. Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ:

3.1. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ phải lập các loại dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.

3.2. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ được phép lựa chọn phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ theo hướng dẫn tại điểm 3.4 khoản 3 Mục III của Thông tư này hoặc các phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ khác phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình nhưng phải đăng ký phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ với Bộ Tài chính trước khi áp dụng.

3.3. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ không được thay đổi phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trong năm tài chính. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm thay đổi phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cho năm tài chính kế tiếp, doanh nghiệp bảo hiểm phải đăng ký lại với Bộ Tài chính chậm nhất vào ngày 01/12 của năm tài chính hiện hành.

3.4. Phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ:

a) Dự phòng phí chưa được hưởng:

- Phương pháp trích lập theo tỷ lệ phần trăm của tổng phí bảo hiểm:

+ Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường không: bằng 17% của tổng phí bảo hiểm giữ lại thuộc năm tài chính của nghiệp vụ bảo hiểm này.

+ Đối với các nghiệp vụ bảo hiểm khác: bằng 40% của tổng phí bảo hiểm giữ lại thuộc năm tài chính của các nghiệp vụ bảo hiểm này.

- Phương pháp trích lập theo hệ số của thời hạn hợp đồng bảo hiểm:

+ Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường không: áp dụng phương pháp trích lập hệ số 1/8.

Ví dụ: giả sử tất cả số phí bảo hiểm tính trong một quý cụ thể được giả định thuộc các hợp đồng có hiệu lực vào giữa quý đó, tức là có sự phân bổ thống nhất giữa các quý và ngày khóa sổ kế toán 31/12/2000. Thời điểm trích lập dự phòng phí chưa được hưởng vào ngày 31/12/2000 và được tính cho năm 2001.

Thời điểm hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực

Phần phí bảo hiểm
được hưởng

Phần phí bảo hiểm
chưa được hưởng

31/03/2000

7/8

1/8

30/06/2000

5/8

3/8

30/09/2000

3/8

5/8

31/12/2000

1/8

7/8

[...]