BỘ TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 48-TC/TCT
|
Hà Nội, ngày 28
tháng 9 năm 1992
|
THÔNG
TƯ
SỐ 48-TC/TCT NGÀY 28-9-1992 CỦA BỘ TÀI CHÍNH HƯỚNG DẪN
THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 276-CT NGÀY 28-07-1992 CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ
VIỆC THỐNG NHẤT QUẢN LÝ CÁC LOẠI PHÍ VÀ LỆ PHÍ
Thi hành Quyết định số 276-CT ngày
28-7-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc thống nhất quản lý các loại
phí và lệ phí, Bộ Tài chính hướng dẫn như sau:
I- VỀ ĐĂNG KÝ
THU PHÍ VÀ LỆ PHÍ
Thực hiện Điều 1 của Quyết định
số 276-CT tất cả các cơ quan Nhà nước, bao gồm các Bộ, ngành, các Uỷ ban nhân
dân và các tổ chức khác (không phải là đơn vị sản xuất kinh doanh) có thu phí,
lệ phí phải đăng ký với cơ quan thuế cùng cấp. Việc đăng ký được tiến hành theo
những quy định như sau:
1- Từ ngày 1 tháng 10 năm 1992
và chậm nhất đến hết ngày 30-11-1992 tất cả các cơ quan Nhà nước và các tổ chức
khác có thu các loại phí và lệ phí phải đến đăng ký với cơ quan thuế.
- Các cơ quan Nhà nước cấp Trung
ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đăng ký với Cục thuế tỉnh,
thành phố nơi cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí đóng trụ sở.
- Các cơ quan Nhà nước ở phường,
xã, quận, huyện và cấp tương đương đăng ký với Chi cục thuế quận, huyện nơi cơ
quan, tổ chức thu phí, lệ phí đóng trụ sở.
Tờ khai theo mẫu thống nhất kèm
theo Thông tư này (mẫu số 1) lập thành 2 bản: 1 bản cơ quan thuế giữ, 1 bản cơ
quan, tổ chức thu phí, lệ phí giữ để chứng minh với các cơ quan quản lý là đã
làm thủ tục đăng ký.
2- Mỗi khi có sự thay đổi các chỉ
tiêu đã kê khai, cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí phải khai báo lại với cơ quan
thuế để điều chỉnh và ghi vào sổ theo dõi của cơ quan thuế.
3- Khi đình chỉ thu phí, lệ phí,
cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí phải báo với cơ quan thuế chậm nhất là 5 ngày
trước khi bắt đầu đình chỉ và phải thanh toán biên lai thu, thanh toán hết số tiền
phí, lệ phí đã thu phải nộp ngân sách.
4- Từ ngày 28-7-1992, cơ quan, tổ
chức nào mới ban hành một khoản thu phí, lệ phí mới (kể cả việc điều chỉnh mức
thu) phải được sự thoả thuận của cơ quan thuế cùng cấp.
5- Cơ quan thuế cần tổ chức ngay
một bộ phận để tiếp nhận hồ sơ đăng ký của các cơ quan, tổ chức thu phí, lệ
phí.
Sau khi nhận hồ sơ, cơ quan thuế
phải thực hiện:
- Xem xét nội dung kê khai, đối
chiếu với các văn bản kèm theo, nếu có điểm nào không đúng, không rõ thì yêu cầu
đối tượng bổ sung và điều chỉnh kịp thời.
- Lập và ghi vào "sổ danh bạ
các cơ quan, tổ chức thu phí và lệ phí" để theo dõi quản lý chặt chẽ các đối
tượng thu phí và lệ phí.
- Tiến hành phân loại phí và lệ
phí để có biện pháp quản lý thích hợp.
- Phối hợp với ngành chủ quản hướng
dẫn cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí lập sổ sách kế toán theo dõi thu, sử dụng
hoá đơn, chứng từ thu, xây dựng mức thu phí, lệ phí, hướng dẫn thủ tục nộp...,
tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí thực hiện tốt Quyết định của
Hội đồng Bộ trưởng.
- Thường xuyên kiểm tra việc
thu, nộp phí và lệ phí, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm.
II- CHẾ ĐỘ
QUẢN LÝ CÁC LOẠI PHÍ Và LỆ PHÍ
Theo điều 3
Quyết định số 276-CT thì Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan hướng
dẫn chế độ quản lý (thu, phân phối, sử dụng và nộp ngân sách) đối với từng khoản
thu phí, lệ phí. Quy định chính sách khen thưởng, tỷ lệ trích cho đơn vị để bù
đắp chi phí trong việc thực hiện công tác thu phí, lệ phí. Trong khi chưa ban
hành chế độ cụ thể đối với từng loại phí, lệ phí, Bộ Tài chính tạm thời quy định
như sau:
1- Kế toán thu, chứng từ thu.
a) Cơ quan, tổ chức thu phí, lệ
phí phải mở sổ sách kế toán theo dõi riêng các khoản thu phí, lệ phí và các khoản
chi phí phục vụ cho việc thu theo đúng quy định của Pháp lệnh Kế toán - thống
kê.
Sổ sách kế toán phải đăng ký với
cơ quan Thuế, phải đóng dấu giáp lai trước khi sử dụng.
b) Chứng từ thu:
Bộ Tài chính sẽ có Thông tư hướng
dẫn riêng về việc cấp phát, quản lý và sử dụng chứng từ thu phí và lệ phí.
- Trước mắt, các cơ quan, tổ chức
đang sử dụng loại chứng từ thu do mình tự ban hành, được tiếp tục sử dụng đến hết
ngày 31-12-1992, nhưng phải kiểm kê số hiện có, đăng ký với cơ quan thuế và chịu
sự quản lý của cơ quan thuế.
- Các cơ quan, tổ chức thu phí,
lệ phí nhận chứng từ thu do cơ quan tài chính cấp, phải thanh toán số biên lai
đã nhận, đã sử dụng và số tiền phí, lệ phí đã thu với cơ quan cấp. Đồng thời phải
kiểm kê, khai báo số hiện còn với cơ quan thuế nơi đăng ký quy định tại điểm 1,
mục 1 Thông tư này trước ngày 30-11-1992 và được tiếp tục sử dụng hết.
- Để tránh lãng phí, các Sở Tài
chính phải tiến hành ngay việc kiểm kê, bàn giao số chứng từ thu còn tồn kho
cho Cục thuế quản lý và hướng dẫn các phòng tài chính, các Chi cục thuế cùng thực
hiện. Việc bàn giao, tiếp nhận chứng từ phải hoàn thành trước ngày 31-12-1992.
- Các cơ quan, tổ chức đã nhận
chứng từ của cơ quan thuế thì tiếp tục đến nhận tại cơ quan thuế.
Tổ chức, cá nhân khi bị thu phí,
lệ phí có quyền từ chối không nộp các khoản đó trong trường hợp cơ quan, tổ chức
thu không sử dụng chứng từ thu do Tổng cục thuế phát hành hoặc chứng từ thu
chưa đăng ký với cơ quan thuế; Đồng thời, báo cho cơ quan thuế biết để có biện
pháp xử lý.
2- Thủ tục nộp phí, lệ phí vào
ngân sách.
a) Cơ quan, tổ chức thu phí, lệ
phí phải tự nộp tiền thu vào ngân sách Nhà nước qua hệ thống kho bạc. Tuỳ theo
đặc điểm loại phí, lệ phí, mức thu và số tiền thu... cơ quan, tổ chức thu phí
thoả thuận với cơ quan thuế lịch nộp tiền vào ngân sách cụ thể: 5 ngày, 10
ngày, 15 ngày... hay 1 tháng 1 lần.
b) Hàng tháng, chậm nhất ngày 5
của tháng sau cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí phải lập tờ khai nộp phí, lệ phí
theo mẫu thống nhất (mẫu số 2) gửi cơ quan thuế để cơ quan thuế theo dõi và nộp
hết số phí, lệ phí còn phải nộp của tháng trước vào ngân sách Nhà nước.
c) Hết năm, chậm nhất hết ngày
30 tháng 1 năm sau, cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí phải quyết toàn cụ thể số
đã thu, số phải nộp với cơ quan thuế.
d) Tiền thu phí, lệ phí được nộp
vào mục 35 "Thu các loại phí và lệ phí" theo chương, loại, khoản, hạng
tương ứng của mục lục ngân sách hiện hành.
Trường hợp thu bằng ngoại tệ thì
nộp vào tài khoản ngoại tệ tập trung của ngân sách Nhà nước tại Ngân hàng ngoại
thương Trung ương hoặc tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương ở địa phương có thu
phí, lệ phí.
e) Số tiền thu phí, lệ phí nộp
ngân sách là tổng số thu phí, lệ phí trừ (-) các khoản chi phí cần thiết phục vụ
công tác thu và tiền thưởng.
- Chi phí cần thiết phục vụ cho
công tác thu phí, lệ phí là những khoản chi phí theo chế độ cho phép cơ quan, tổ
chức thu được chỉ bao gồm chi phí in (mua) sổ sách, chứng từ, mẫu biểu kê khai,
tiền lương và phụ cấp của cán bộ, công nhân viên trực tiếp thu...
- Đối với những cơ quan, tổ chức
mà việc thu phí, lệ phí gắn liền với việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước
(nhiệm vụ thường xuyên) và các cơ quan, tổ chức khác mà kinh phí phục vụ thu
phí, lệ phí đã được ngân sách cấp theo dự toán thì không được tính riêng các
khoản chi phí để trừ.
Trường hợp, nhu cầu chi phí lớn,
phát sinh ngoài chi phí thường xuyên của đơn vị mà ngân sách không đáp ứng được
cần hỗ trợ từ nguồn thu phí, lệ phí thì phải được sự thoả thuận của cơ quan thuế
cùng cấp về mức để lại cho cơ quan, tổ chức, đảm bảo đủ bù đắp chi phí trực tiếp
phục vụ công tác thu phí, lệ phí.
g) Tỷ lệ trích thưởng:
Các cơ quan, tổ chức thu phí, lệ
phí được trích tỷ lệ (%) trên tổng số thu để thưởng cho cán bộ công nhân viên
trực tiếp thu, cho các cơ quan, cá nhân phối hợp và hỗ trợ kinh phí cho công
tác thu phí và lệ phí của cơ quan. Mức thưởng hàng năm cho cá nhân tối đa không
quá 6 tháng lương cơ bản theo chế độ hiện hành.
Trước mắt, đối với những loại
phí và lệ phí mà Bộ Tài chính đã quy định hoặc liên Bộ Tài chính - ngành đã quy
định tỷ lệ để lại thì tiếp tục áp dụng theo quy định đó. Đối với các loại phí
và lệ phí khác Bộ Tài chính chưa quy định tỷ lệ để lại thì tạm thời trong năm
1992 được tạm trích tối đa không quá 10% trên số thu kể cả số ngoại tệ đã quy đổi
ra tiền Việt Nam để thưởng kịp thời cho những cán bộ công nhân có thành tích
trong việc thực hiện nhiệm vụ thu nhưng không quá 6 tháng lương cơ bản như đã
nói trên. Mức thưởng chính thực Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các Bộ, ngành quyết
định cụ thể khi có quyết toán thu chi chính thức của năm 1992.
3- Đối với số tiền đã thu từ
ngày 1 tháng 1 năm 1992 và số tiền đã trích để lại theo quy định của Bộ, ngành
chưa nộp ngân sách hoặc chưa dùng hết thì phải nộp ngân sách theo đúng điểm 2d,
mục II nêu trên.
4- Các loại phí, lệ phí Bộ Tài
chính đã để lại cho các ngành tự thu, tự chi không nộp vào ngân sách (phí giao
thông, lệ phí qua cầu, phà...) nay phải nộp vào ngân sách theo đúng hướng dẫn tại
điểm 2 nêu trên thì được thực hiện nộp từ ngày 1-1-1993. Riêng phí giao thông nộp
vào mục 31 theo chương, loại, khoản, hạng tương ứng của mục lục ngân sách; Bộ
Tài chính sẽ có kế hoạch cấp lại cho Bộ Giao thông vận tải và bưu điện theo nhu
cầu kế hoạch được duyệt.
III- TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Thực hiện điều 2 Quyết định số
276-CT, các Bộ, các ngành và các địa phương phải khẩn trương phối hợp với cơ
quan tài chính, cơ quan thuế cùng cấp rà soát lại từng loại phí, lệ phí đang áp
dụng, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung và thông báo Bộ Tài chính để tổng hợp trình
Chính phủ xem xét quyết định sớm ban hành chế độ thu phí, lệ phí áp dụng thống
nhất trong cả nước.
Trong khi chờ chế độ chung, những
quy định về thu phí, lệ phí do các Bộ, ngành, địa phương ban hành nếu thấy còn
phù hợp thì tạm thời được tiếp tục thực hiện, nhưng phải chấp hành chế độ đăng
ký, chế độ thu, nộp, giữ sổ sách kế toán, sử dụng chứng từ thu theo đúng mục I,
mục II Thông tư này.
Cơ quan thuế các cấp có trách
nhiệm kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí thực hiện đúng chế
độ quy định; đồng thời phối hợp với các ngành trong tỉnh tổ chức kiểm tra, rà
soát lại các loại phí, lệ phí đang thu. Nội dung kiểm tra gồm:
- Cơ quan, tổ chức thu phí, lệ
phí căn cứ vào văn bản nào?
- Thẩm quyền ra quyết định thu
phí, lệ phí đối chiếu với chức năng nhiệm vụ có đúng không?
- Đối tượng nộp phí, lệ phí;
- Mức thu;
- Sổ sách kế toán theo dõi thu,
chứng từ thu;
- Phân phối, sử dụng khoản thu
phí, lệ phí;
- Căn cứ hướng dẫn của Bộ, ngành
chủ quản; cơ quan, tổ chức thu phí, lệ phí có thực hiện đúng không?
Thời điểm kiểm tra từ ngày 1
tháng 1 năm 1992 đến ngày kiểm tra.
Qua kiểm tra, nếu phát hiện khoản
thu phí, lệ phí không hợp lý thì kịp thời báo cáo Bộ Tài chính và cơ quan chủ
quản để kiến nghị điều chỉnh, bổ sung hoặc đình chỉ thi hành.
Chậm nhất hết tháng 1 năm 1993 các
Cục thuế tập hợp tình hình và kết quả kiểm tra gửi báo cáo về Tổng cục thuế. Tổng
cục thuế tổng hợp báo cáo Bộ Tài chính để trình Chính phủ.
Trong quá trình thi hành, nếu có
khó khăn, vướng mắc, cần phản ánh kịp thời về Bộ Tài chính để hướng dẫn thêm.