BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
31-TC/CN
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 5 năm 1991
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 31-TC/CN NGÀY 27/5/1991 HƯỚNG DẪN CHẾ ĐỘ
BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC ĐƠN VỊ KINH TẾ QUỐC
DOANH
Thi hành Chỉ thị số 138-CT ngày
25/4/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc mở rộng việc giao trách nhiệm
sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn sản xuất kinh doanh cho các đơn vị kinh tế
quốc doanh, Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ bảo toàn và phát triển vốn sản xuất -
kinh doanh của các đơn vị kinh tế quốc doanh như sau:
I. TRÁCH NHIỆM
BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN SX-KD CỦA CÁC ĐƠN VỊ KINH TẾ QUỐC DOANH
1. Tất cả đơn vị kinh tế quốc
doanh hạch toán kinh tế độc lập, có sử dụng vốn trong sản xuất - kinh doanh,
bao gồm vốn cố định, vốn lưu động và các loại vốn khác thuộc nguồn vốn NSNN cấp,
vốn tự bổ sung, vốn vay Ngân hàng và các nguồn vốn chiếm dụng khác đều phải có
trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của mình.
Bảo toàn vốn ở các đơn vị kinh tế
quốc doanh được thực hiện trong quá trình sử dụng vốn vào mục đích sản xuất -
kinh doanh, đảm bảo cho các loại tài sản không bị hư hỏng trước thời hạn và mất
mát, hoặc ăn chia vào vốn, không được tạo ra lãi giả để làm giảm vốn, kể cả vốn
cố định và vốn lưu động. Đồng thời, người sử dụng vốn phải thường xuyên duy trì
được giá trị đồng vốn của mình thể hiện bằng năng lực sản xuất của TSCĐ, khả
năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy
trì khả năng thanh toán của xí nghiệp. Do đó trong điều kiện có trượt giá tăng
lên thì số vốn được cấp ban đầu (hoặc tự bổ sung) cũng phải được tăng theo để
duy trì năng lực sản xuất - kinh doanh của xí nghiệp.
Các xí nghiệp ngoài trách nhiệm
bảo toàn vốn, còn có trách nhiệm chăm lo phát triển vốn, thường xuyên bổ sung
và tăng vốn để tự mở rộng, đổi mới công nghệ để phát triển sản xuất kinh doanh
của xí nghiệp.
2. Biên bản giao vốn cho các đơn
vị kinh tế quốc doanh là văn bản pháp lý ghi nhận số vốn cố định, vốn lưu động
và các loại vốn khác thuộc ngân sách cấp và tự bổ sung được giao cho xí nghiệp
tính từ thời điểm ký biên bản giao nhận vốn và xí nghiệp có trách nhiệm bảo
toàn.
Các đơn vị kinh tế quốc doanh phải
nộp tiền sử dụng vốn cố định và vốn lưu động - do NSNN cấp theo các quy định hiện
hành trên cơ sở số vốn được giao lần đầu hoặc số vốn phải bảo toàn hàng năm
theo các quy định của Thông tư này.
3. Thông tư này quy định chế độ
bảo toàn vốn cố định và vốn lưu động đã được giao cho XN và gắn liền với chế độ
thu tiền sử dụng vốn do NSNN cấp. Các loại vốn khác như: KHCB để lại xí nghiệp,
quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của xí nghiệp, vốn sửa chữa lớn, lợi nhuận
chưa phân phối v.v... cũng được giao cho xí nghiệp, nhưng tính chất bảo toàn
các vốn này khác với vốn cố định và vốn lưu động. Nội dung bảo toàn chủ yếu của
các vốn này là xí nghiệp phải sử dụng có mục đích và có hiệu quả.
II. PHƯƠNG
PHÁP VÀ NGUỒN BẢO TOÀN VỐN CỐ ĐỊNH VÀ VỐN LƯU ĐỘNG
1. Bảo toàn vốn
cố định.
a. Phương thức bảo toàn vốn cố định
là : Xác định đúng nguyên giá TSCĐ, trên cơ sở đó tính đúng và tính đủ khấu hao
cơ bản và KHSCL TSCĐ để tạo nguồn thay thế và duy trì năng lực sản xuất của
TSCĐ.
Ngoài ra, các đơn vị kinh tế cơ
sở phải tự đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất, đổi mới trang thiết bị bằng
nguồn quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại xí nghiệp.
b. Vào đầu năm kế hoạch, do chưa
xác định chính thức số vốn phải bảo toàn, mức phải nộp về tiền sử dụng vốn NSNN
cho năm kế hoạch được tạm xác định trên cơ sở số vốn xí nghiệp đã tự bảo toàn
được đến cuối năm báo cáo theo sổ sách kế toán của xí nghiệp.
Cơ quan quản lý cấp trên với sự
tham gia của cơ quan tài chính cùng cấp khi xét duyệt quyết toán năm chính thức
cho đơn vị trực thuộc (không được chậm quá tháng 6 năm sau) sẽ xác định chính
thức hệ số tăng vốn, kể cả hệ số hao mòn vô hình (nếu có) và số vốn cố định phải
bảo toàn đến cuối năm báo cáo.
Số phải nộp chính thức về tiền sử
dụng vốn cho năm tới (năm kế hoạch) sẽ được xác định trên cơ sở số vốn phải bảo
toàn đó.
Công thức tính như sau:
Số
vốn phải bảo toàn đến cuối năm báo cáo
|
=
|
Số
vốn được giao đầu năm (hoặc số vốn phải bảo toàn đầu năm)
|
-
|
Khấu
hao cơ bản nộp NS trong năm
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
x
|
Hệ số tăng vốn trong năm báo
cáo
|
x
|
Hệ số hao mòn vô hình (nếu có)
|
Ví dụ về việc xác định số vốn phải
bảo toàn đến cuối năm báo cáo (1991):
Số vốn ngân sách cấp đầu tư ban
đầu cho TSCĐ của xí nghiệp bao gồm: vốn cố định (giá trị còn lại của TSCĐ) và số
dư về KHCB để lại xí nghiệp (đã trừ phần nộp ngân sách và phần đã sử dụng) đến
thời điểm giao vốn 1/1/1991 là:
+ Vốn cố định (NSNN cấp): 500
tr. đồng.
+ Số dự KHCB để lại xí nghiệp:
30 tr. đồng
Cộng vốn giao cho xí nghiệp để
tính thu tiền sử dụng vốn trong năm 1991: 530tr. đồng. Đồng thời trong năm 1991
xí nghiệp đã nộp KHCB vào NSNN là 50tr.đồng.
Để xác định số vốn phải bảo toàn
đến cuối năm 1991, phải tính hệ số trượt giá như sau:
Vào thời điểm 1/1/1991 thì giá
trị TSCĐ vẫn được xác định trên cơ sở kết quả kiểm kê đánh giá lại TSCĐ
1/1/1990, nghĩa là theo tỷ giá Rúp 2.400 đ/R và tỷ giá đô la: 3.900 đ/USD.
Trong tổng số vốn cố định 200 tr.đồng thì hình thành từ 3 nguồn: một phần TSCĐ
nhập khẩu từ khu vực I theo tỷ giá Rúp; một phần nhập từ khu vực II theo tỷ giá
đôla và một phần vốn trong nước.
Giả định, đến thời điểm 1/1/1992
bỏ tỷ giá Rúp; tỷ giá đôla lên 8.000 USD. Do đó tính được :
+ Hệ số tăng vốn chung cho phần
TSCĐ nhập khẩu là:
8.000
=
2,3 (phần giá trị TSCĐ là tính từ Rúp coi như tương ứng với mặt bằng
3.900 giá TSCĐ tính từ đôla).
+ Hệ số tăng vốn phần đầu tư
trong nước là 1,3. Căn cứ cơ cấu hình thành TSCĐ của xí nghiệp, hệ số chung
tăng vốn của xí nghiệp là 1,7.
+ Hệ số hao mòn vô hình là 0,9.
Như vậy vốn cố định xí nghiệp phải bảo toàn và là căn cứ tính số thu tiền sử dụng
vốn chính thức cho năm sau (năm 1992) là :
(530 tr - 50 tr) x 1,7 = 743
tr.đồng
Đến năm tiếp theo, số vốn phải bảo
toàn lại được xác định trên cơ sở 743 tr.đồng.
Như vậy, trên thực tế Nhà nước
đã không thu tiền sử dụng vốn trên số vốn phải bảo toàn từ khi phát sinh trượt
giá trong năm mà chỉ thu trên số vốn phải bảo toàn tính đến đầu năm.
Xí nghiệp căn cứ vào kết quả xác
định số vốn phải bảo toàn nói trên để điều chỉnh hạch toán nâng giá TSCĐ và vốn
cố định lên theo hệ số tương ứng. Xí nghiệp có thể chủ động nâng giá TSCĐ từ
khi có thay đổi tỷ giá, hoặc điều chỉnh tăng giá TSCĐ cho phù hợp, mà không chờ
vào dịp cuối năm khi xét duyệt chính thức số bắt buộc phải bảo toàn.
Do đó, thực tế số vốn cố định đã
bảo toàn được của xí nghiệp không nhất thiết trùng với số vốn cố định phải bảo
toàn giao cho xí nghiệp.
Trong năm nếu xí nghiệp thay đổi,
làm mất mát, hoặc hư hỏng trước thời hạn phải thanh lý v.v... thì số vốn thực có
trên sổ sách cũng sẽ thấp hơn số vốn phải bảo toàn đến cuối năm.
2. Bảo toàn số
vốn lưu động.
a. Phương thức bảo toàn vốn lưu
động là: định kỳ tháng, quý, năm, đơn vị kinh tế cơ sở phải xác định các khoản,
chênh lệch giá tài sản lưu động định mức hiện có ở xí nghiệp, bao gồm các khâu:
vật tư dự trữ, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang và thành phẩm (tính theo giá
thành) và chênh lệch tỷ giá số dư ngoại tệ (nếu có) - để bổ sung vốn lưu động.
Đây là số vốn lưu động thực tế đã bảo toàn được của xí nghiệp.
Các khoản chênh lệch giá đó được
xác định trong mọi trường hợp thay đổi giá của vật tư do Nhà nước định và các
loại vật tư mua vào trên cơ sở giá cả thoả thuận trên thị trường.
Trường hợp có tăng giá các loại
vật tư dùng trong sản xuất sản phẩm của xí nghiệp, nhưng đến thời điểm tăng giá
không có vật tư dự trữ và do đó không phát sinh chênh lệch thì đơn vị xí nghiệp
phải tự bổ sung vốn lưu động từ nguồn vốn tự tạo: quỹ khuyến khích phát triển sản
xuất trích từ lợi nhuận để lại xí nghiệp.
b. Số phải bảo toàn hàng năm về
vốn lưu động là hệ số trượt giá (năm) của TSLĐ của từng ngành, từng XN nhân với
số vốn lưu động được giao cho xí nghiệp kể từ thời điểm giao vốn.
Số
vốn phải bảo toàn đến năm báo cáo
|
=
|
Số
vốn đã được giao (hoặc đã được bảo toàn) đầu năm
|
x
|
Hệ
số trượt giá VLĐ của XN trong năm
|
Hệ số trượt giá VLĐ của XN trong
năm căn cứ để thu tiền sử dụng vốn trong nănm là số VLĐ được ngân sách cấp tính
từ thời điểm giao vốn đầu năm hoặc số vốn phải bảo toàn đầu năm.
Hệ số trượt giá bình quân của VLĐ
được xác định phù hợp với đặc điểm cơ cấu TSLĐ từng ngành, từng xí nghiệp trên
cơ sở mức tăng giá thực tế cuối năm so với đầu năm của một số vật tư chủ yếu
tính theo cơ cấu kế hoạch (định mức) vốn của từng xí nghiệp.
Ví dụ: Một xí nghiệp dệt có số vốn
lưu động
được giao 1/1/1991 là: 500 tr. đồng
Trong đó, phần ngân sách cấp 400
tr.đồng chiếm 80%
phần XN tự bổ sung100 tr.đồng
chiếm 20%
Trong năm 1991, XN nộp tiền sử dụng
vốn trên cơ sở 400 tr.đồng
Đến 31/12/1991 XN đã tự tăng lên
(do tăng giá bông tồn kho) thành 600 tr.đồng
Trong đó: Phần NS cấp 480 tr.đồng
XN tự bổ sung 120 tr.đồng
Đây là số thực tế xí nghiệp đã bảo
toàn được.
Chúng ta xác định hệ số phải bảo
toàn theo giả định như sau :
+ Giá bông cuối 1991 so với đầu
1991 tăng 1,5 lần.
+ Trong cơ cấu vốn lưu động định
mức (theo KH của XN thì bông chiếm tới 70%. Giả sử rằng chỉ có giá bông tăng,
các giá của TSCĐ khác không tăng (bằng 1).
Ta có hệ số tăng giá chung của
VLĐ như sau :
(1,5
x 70) + (1 x 30)
__________________________ =
1,35 lần.
100
Số vốn lưu động phải bảo toàn đến
cuối 1991 là:
500 tr x 1,35 = 675 tr.đồng.
Trong đó: Ngân sách cấp : 400 x
1,35 = 540 tr
Tự bổ sung: 100 x 1,35 = 135 tr
Như vậy năm 1992 xí nghiệp phải
nộp tiền sử dụng vốn trên cơ sở vốn 540 tr.đồng.
Như trên đã thấy, phần vốn ngân
sách cấp xí nghiệp thực tế mới bảo toàn được 480 tr; Số thiếu 60 tr xí nghiệp
phải xử lý bổ sung thêm theo quy định ở mục 3 dưới đây.
Trường hợp ngược lại, do XN dự
trữ nhiều bông vào các thời điểm tăng giá, có thể số thực tế đã bảo toàn được vốn
lưu động ngân sách cấp cao hơn số phải bảo toàn (ví dụ 560 tr.đồng). Trường hợp
này xí nghiệp không phải nộp tiền sử dụng vốn cho phần chênh lệch tăng thêm (20
triệu đồng).
Cơ quan quản lý cấp trên xí nghiệp
và cơ quan tài chính (chủ trì) xác định hệ số bảo toàn vốn lưu động hàng năm
theo phương pháp nói trên cho từng xí nghiệp vào dịp duyệt quyết toán năm cho
xí nghiệp. Trong khi chưa xác định chính thức số vốn lưu động phải bảo toàn thì
cơ quan thuế tạm thu tiền sử dụng vốn trên số thực tế xí nghiệp đã bảo toàn được
đến cuối năm báo cáo. Ngoài hệ số trượt giá, số phải bảo toàn về vốn lưu động
còn bao gồm cả số ngân sách cấp thêm hoặc coi như ngân sách cấp, hoặc xí nghiệp
tự bổ sung trong năm nếu có.
3. Xử lý trách
nhiệm bảo toàn vốn.
a. Nếu số vốn cố định và vốn lưu
động đến cuối năm của xí nghiệp thực tế đã tự bảo toàn được thấp hơn so với số
phải bảo toàn như quy định ở mục 1 và 2 nói trên thì xí nghiệp có trách nhiệm xử
lý như sau :
- Nếu vốn cố định không được bảo
toàn do giá trị TSCĐ, chưa được tính đủ thì phải điều chỉnh tăng giá TSCĐ, và
do đó nguồn trích khấu hao trong giá thành cũng tăng lên tương ứng (trường hợp
xí nghiệp phải lùi mức khấu hao thì cũng không lùi nguyên giá TSCĐ).
- Nếu vốn lưu động không được bảo
toàn do không tính đủ các khoản chênh lệch giá vật tư, sản phẩm dở dang, thành
phẩm tồn kho thì phải bổ sung thêm các khoản chênh lệch giá đó. Trường hợp số
thiếu hụt về chênh lệch giá đó nằm trong giá thành sản phẩm đã tiêu thụ thì phải
điều chỉnh tăng lại giá thành sản phẩm tiêu thụ, giảm lãi xí nghiệp.
- Trường hợp không bảo toàn được
vốn lưu động do không có vật tư dự trữ và do đó không có chênh lệch giá vào các
thời điểm tăng giá thì xí nghiệp có trách nhiệm tự bổ sung bằng nguồn quỹ xí
nghiệp của mình, trong đó chủ yếu là nguồn quỹ khuyến khích phát triển sản xuất
của xí nghiệp.
- Trường hợp do mất mát, hư hỏng
vật tư, tài sản, làm giảm vốn thì phải sử dụng vốn tự có về đầu tư XDCB của xí
nghiệp, trong đó có quỹ khuyến khích phát triển sản xuất để tự bù đắp.
- Trường hợp xí nghiệp có khó
khăn trong việc tạo nguồn bảo toàn vốn thì trước hết xí nghiệp phải xử lý bảo
toàn vốn ngân sách cấp. Trường hợp không có nguồn quỹ khuyến khích phát triển sản
xuất để bổ sung vốn thì xí nghiệp phải chuyển phần vốn đã tự bổ sung sang bù đắp
đủ cho vốn phải bảo toàn thuộc phần ngân sách cấp. Trường hợp nguồn vốn để tự bổ
sung của xí nghiệp cũng không còn thì xí nghiệp có trách nhiệm tự bù đắp trong
những năm sau. Đồng thời phân tích nguyên nhân và truy cứu trách nhiệm của giám
đốc xí nghiệp (nếu cần).
Xí nghiệp có trách nhiệm báo cáo
các phương án xử lý các khoản chênh lệch bảo toàn vốn nói trên với cơ quan quản
lý cấp trên và cơ quan tài chính cùng cấp trong dịp xét duyệt quyết toán hàng
năm và do các cơ quan này duyệt y.
Mọi tổn thất hao hụt vốn và
không bảo toàn được vốn phát sinh trong nhiệm kỳ giám đốc nào thì giám đốc đó
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật cho đến khi xử lý xong.
Các trường hợp không bảo toàn được
vốn do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa ... không thể khắc phục
được mặc dù xí nghiệp đã có các biện pháp đề phòng, thì được xem xét cụ thể để
xử lý giảm vốn hoặc đưa vào lãi lỗ theo các quy định hiện hành.
b. Trường hợp số vốn cố định và
vốn lưu động đã bảo toàn được cao hơn số phải bảo toàn thì phần chênh lệch cao
hơn đó xí nghiệp không phải nộp tiền sử dụng vốn. Tuy nhiên xí nghiệp không được
tính khấu hao vượt quá mức qui định của Nhà nước hoặc chiếm dụng vốn khách hàng
để dự trữ vật tư ăn chênh lệch giá.
c. Ngoài trách nhiệm bảo toàn vốn,
các xí nghiệp có trách nhiệm phát triển vốn trên cơ sở quỹ khuyến khích phát
triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại xí nghiệp và phần vốn KHCB để lại xí
nghiệp dùng để đầu tư XDCB cho xí nghiệp.
II. HẠCH
TOÁN KẾ TOÁN BẢO TOÀN VỐN CỐ ĐỊNH VÀ VỐN LƯU ĐỘNG
1. Hạch toán bảo toàn vốn cố định.
Số vốn cố định thực tế được bảo
toàn phản ánh trong số dư có tài khoản 80 nguồn vốn cố định (801, 802) và số dư
có tài khoản 82 "Nguồn vốn xây dựng cơ bản" (822).
a. Căn cứ kết quả đánh giá lại
TSCĐ (theo quyết định của Nhà nước hoặc xí nghiệp tự đánh giá nhằm bảo toàn vốn
cố định):
Nợ TK 10 - Tài sản cố định (tăng
nguyên giá)
Có TK 11 - Hao mòn TSCĐ (tăng
hao mòn)
Có TK 80 - Nguồn vốn cố định
(tăng vốn cố định).
b. Cuối năm, khi xét duyệt quyết
toán về bảo toàn vốn cố định, nếu nguồn vốn cố định chưa được bảo toàn đủ so với
số phải bảo toàn thì xí nghiệp phải tiếp tục đánh giá lại TSCĐ theo đúng với thực
tế, hoặc phải bổ sung bằng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất v.v... như quy
định ở mục 3, phần II nói trên.
- Nếu đánh giá lại TSCĐ thì ghi
sổ như bút toán a.
- Nếu bổ sung bằng quỹ và chênh
lệch giá, ghi:
Nợ TK 83 - Quỹ xí nghiệp (831,
832...)
Có TK 82 - nguồn vốn XDCB.
2. Hạch toán bảo toàn vốn lưu động
a. Xí nghiệp đánh giá lại vật
tư, hàng hóa, sản phẩm, ngoại tệ.. tồn kho theo khả năng bảo toàn vốn lưu động
(xí nghiệp tự đánh giá hoặc theo quyết định của Nhà nước).
- Nếu tăng giá
Nợ TK 20, 21, 22, 23, 24, 25,
50, 51...
Có TK 65 - Chênh lệch tỷ giá và
chỉ số giá
- Nếu giảm giá: ghi ngược lại.
b. Bổ sung vốn lưu động (theo số
phải bảo toàn)
- Bằng chênh lệch giá :
Nợ TK 65 - Chênh lệch tỷ giá và
chỉ số giá
Có TK 81 - nguồn vốn lưu động
- Bằng quỹ PTSX, quỹ dự trữ tài
chính:
Nợ TK83 - Quỹ xí nghiệp
Có TK81 - Nguồn vốn lưu động
3. Trong "Bảng tổng kết tài
sản ngày 31-12 hàng năm", (báo cáo số 01BCKT - ban hành theo Quyết định số
224 TC/CĐKT ngày 18-4-1990 của Bộ Tài chính) bổ sung thêm chỉ tiêu trong phần
"tài liệu bổ sung".
- Vốn cố định phải bảo toàn (chỉ
tiêu số 101):
+ Số đầu năm...
+ Số cuối kỳ...
- Vốn lưu động phải bảo toàn (chỉ
tiêu số 102):
+ Số đầu năm...
+ Số cuối kỳ...
Các chỉ tiêu khác (như hệ số
tăng, giảm giá, giá trị vốn phải bảo toàn...) đã qui định trong phần "tình
hình bảo toàn vốn" của báo cáo số 04/BCKT - Bản giải trình kết quả hoạt động
sản xuất - kinh doanh... phải được tính toán theo qui định tại Thông tư này và
ghi chép đầy đủ trong báo cáo 04 nói trên.
IV. ĐIỀU KHOẢN
THI HÀNH
Chế độ bảo toàn vốn cố định và vốn
lưu động theo Thông tư này áp dụng từ năm 1991 trở đi (từ tháng 01-1991).
Đợt giao nhận vốn thí điểm
01-10-1990 và giao vốn đại trà vào đầu năm 1991 chưa tính số vốn bảo toàn.
Những qui định trước đây và các
qui định của các Bộ, các địa phương trái với Thông tư này đều không có hiệu lực
thi hành.
Trong quá trình thực hiện nếu có
khó khăn vướng mắc thì báo cáo Bộ Tài chính để nghiên cứu sửa đổi kịp thời cho
phù hợp.